Anh "bộ đội Cụ Hồ" Kostas Sarantidis

Xuất phát từ châu Phi, sau 25 ngày đêm lênh đênh trên biển cả, sáng ngày 6/2/1946, trung đoàn Lê dương số 2 - Quân viễn chinh Pháp đổ bộ vào Việt Nam. Đây là một đội quân hỗn tạp gồm những người lính có quốc tịch khác nhau ở Bắc Phi, Tây Âu, phần lớn là những tên đao phủ S.S. của phát xít Hitler, sau thế chiến 2 được thực dân Pháp thu dụng đưa sang “giải phóng Đông Dương”. Trong số thanh niên tham gia đội quân Lê dương ấy có chàng trai Hy Lạp Kostas Sarantidis.

Anh sinh ra trong một gia đình công nhân ở miền Bắc Hy Lạp. Năm 1943, mới 16 tuổi, anh bị bắt đi lính để đưa sang Đức phục vụ cho chế độ phát xít Hitler. Đến Nam Tư, anh trốn thoát, sống vật vờ trên những chuyến tàu lửa ngược xuôi dọc biên giới Nam Tư-Hy Lạp.

Thế chiến 2 kết thúc, anh không có giấy tờ tùy thân, không có đường trở về Hy Lạp, anh bị bắt đưa vào trại tập trung ở Ý và gia nhập đội quân Lê dương theo lời rủ rê của bạn bè. Anh được nghe người Pháp mô tả Sài Gòn là một thành phố đẹp nhất Á Đông với những dòng sông thơ mộng, những “con thuyền huyền bí” và bao điều kỳ lạ, hấp dẫn.

Nhưng khi cập bến Sài Gòn, đứng trên boong tàu, nhìn thành phố, anh thấy quang cảnh thật là trái ngược. Nước sông Sài Gòn đầy rác rưởi, xác xúc vật chết nổi lềnh bềnh. Trên mặt đất là những hầm trú ẩn, những nhà kho đầy xe quân sự Mỹ. Xa hơn một chút là tàn tích sự sụp đổ của phát xít Nhật...

Vừa mới chân ướt chân ráo đến Sài Gòn, tiểu đoàn 3 của anh bị đưa lên tàu lửa để ra miền Trung. Đến ga Thủ Đức, anh thấy một đám trẻ con xô đẩy nhau đến gần lính Lê dương để bán những món hàng nghèo nàn của chúng. Hình ảnh này gợi nhớ thời kỳ phát xít Đức chiếm đóng Hy Lạp, anh và các bạn học cùng trường đói khát, đã phải chạy theo quân Đức để cố vét lấy những thìa cháo còn lại trong cà mèn của họ. Một việc xảy ra giữa ban ngày trước mặt anh: một tên lính Lê dương đã nổ súng bắn chết một ông già chỉ vì ông thấy lính Tây, sợ quá bỏ chạy!

Những ngày tiếp theo, trên con đường lên Đà Lạt, xuống Phan Rang, Phan Thiết, anh đã tận mắt chứng kiến không biết bao nhiêu cảnh giết người, cướp của, đốt nhà tàn bạo của lính Lê dương dưới sự chỉ huy của các sĩ quan Pháp. Một hôm, cuối tháng 2/1946, đơn vị anh đi qua một ngôi làng, đoàn xe dừng lại trước một cây cầu. Đứng chờ đến lượt sang sông, anh thấy một lá cờ Pháp treo trên một chòi canh. Trên hàng rào tháp canh, anh nhìn thấy bao nhiêu chiếc đầu người bị chặt cắm lên các cây cọc. Anh ngạc nhiên đến sững sờ. Toàn thân anh run lên, nước mắt ràn rụa, tim anh đập loạn xạ. Anh tự hỏi tại sao người Pháp đã chịu đau khổ dưới gót chân phát xít Đức lại có hành động như bọn Hitler?

Từ những bất bình nảy sinh khi mới đặt chân lên Sài Gòn, Thủ Đức, đến đây, máu trong tim anh sôi lên, anh dứt khoát tìm mọi cách nhanh chóng rời bỏ quân xâm lược pháp dã man, đứng về phía người Việt Nam đang chiến đấu chống Pháp để giành, giữ độc lập, tự do.

pic

Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trao Huân chương Hữu nghị cho ông Kostas Sarantidis - Nguyễn Văn Lập.

Ảnh: TTXVN

Đóng quân ở Bình Hòa, Mũi Né, tỉnh Bình Thuận, Kostas làm quen với cô gái xinh đẹp, “vợ” của viên thiếu úy Pháp – cấp trên của anh. Sau này anh được biết cô gái tên Lily ấy là điệp viên kháng chiến Mai Lê. Việc liên lạc bí mật, khôn khéo giữa anh với Mai Lê và người tù Việt Minh biết tiếng Pháp do đơn vị anh canh giữ là Lê Trung Biền diễn ra đầy những tình tiết ly kỳ mà sau này anh có dịp kể lại tỉ mỉ trong hồi ký Tại sao tôi theo Việt Minh đã được NXB Quân Đội Nhân Dân Việt Nam ấn hành.

Một kết thúc vô cùng tốt đẹp là anh đã thoát khỏi đội quân Lê dương để ra vùng tự do ở Bình Thuận, rủ thêm một lính Lê dương khác, người Tây Ban Nha là Santos Merinos. Anh còn giải thoát cho Lê Trung Biền và 25 người tù khác, mang theo một khẩu súng máy và hai khẩu súng trường. Cái đêm anh rời bỏ hàng ngũ địch là một bản hùng ca vô cùng hấp dẫn trong những trang hồi ký của anh. Đó là đêm 3 rạng ngày 4/6/1946, bốn tháng sau khi anh đổ bộ Sài Gòn. Một ngày lịch sử anh luôn ghi nhớ trong đời mình.

Ra vùng tự do, anh gia nhập ngay hàng ngũ quân kháng chiến. Người cán bộ chỉ huy đơn vị quân đội đầu tiên anh được gặp là chi đội trưởng Đoàn quân Nam tiến từ miền Bắc vào Nam đánh giặc. Đồng chí Vi Dân đặt cho anh tên Việt Nam là Nguyễn Văn Lập. Từ đây, Nguyễn Văn Lập chính thức trở thành “anh bộ đội Cụ Hồ”.

Chín năm kháng chiến chống Pháp, anh được phân công nhiều nhiệm vụ khác nhau trong các đơn vị quân đội chính quy Liên khu 5. Anh có mặt trong nhiều trận chiến đấu ác liệt ở khúc ruột miền Trung. Thời kỳ đầu làm công tác địch vận ở chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng, anh đã lập công xuất sắc. Anh làm chương trình phát thanh vào đồn địch, kể chuyện bản thân mình bằng tiếng Pháp cho những người lính Lê dương nghe. Chương trình đã cảm hóa, thu phục được 40 người lính bỏ Pháp, mang theo súng đạn sang kháng chiến, cứu sống 120 người bị địch bắt. Có lần, theo chủ trương của cấp trên, anh đóng giả “sĩ quan Pháp” dẫn một tiểu đội “lính” đi “càn quét”, lùa đồng bào vùng tạm chiếm vào một chỗ, kêu gọi những tên chỉ điểm cho Pháp ra lĩnh thưởng, lừa chúng vào tròng, bắt gọn, vạch mặt bọn gián điệp trước nhân dân. Bà con thở phào, nhiệt liệt hoan hô “ông Tây Việt Minh chỉ huy càn quét”!

Làm xạ thủ trung liên 12ly7, anh đã cùng đồng đội bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay Morane ở gần ga Phú Cang (Quảng Nam). Ba tên giặc lái bị bắt đã trố mắt, cực kỳ ngạc nhiên thấy “hai ông Tây” trong hàng ngũ Việt Minh đã bắn hạ mình. Trong trận chống bọn lính Âu-Phi đi càn quét ở Hương An – Bà Rén ngày 13/4/1948, anh đã cùng đồng đội ở tiểu đoàn 39 chiến đấu kiên cường, bắn xối xả vào địch, đỏ cả súng máy, diệt gọn 200 lính địch, bẻ gãy cuộc càn quét.

Kháng chiến ngày càng thắng lợi. Tù binh Âu-Phi bị bắt ngày càng nhiều. Liên khu 5 phải lập nhiều trại tù binh. Nguyễn Văn Lập được điều về làm tổng giám thị trại tù binh số 3 ở Quảng Ngãi. Đây là một công việc mới mẻ và cực kỳ khó khăn. Trước vô vàn thiếu thốn về vật chất từ nhà cửa, giường nằm, thức ăn, nước uống đến thuốc chữa bệnh, anh đã cùng đồng đội lo toan xoay xở để tù binh sống được với mức tối thiểu cần thiết. Anh phải tham gia cả công tác vận động nhân dân bán thức ăn rẻ cho trại. Cấp trên nói với anh: “Trạm gác là nhân dân. Tù binh không cần bị gác mà cần được giáo dục”. Quả là hết sức đặc biệt và cực kỳ mới mẻ đối với anh.

Một điểm mạnh của anh là vốn ngoại ngữ. Ngoài tiếng mẹ đẻ Hy Lạp, anh còn biết các thứ tiếng: Đức, Pháp, Ý, Việt Nam. Anh hiểu phong tục, tập quán cũng như tâm trạng của các sắc lính tù binh Âu-Phi. Anh đã làm tốt công tác giáo dục, làm cho họ hiểu chính nghĩa của Việt Nam chống xâm lược và chính sách nhân đạo của chính phủ kháng chiến. Sau này, khi được trao trả cho Pháp, nhiều tù binh đã nói lên lời cảm phục và biết ơn sâu sắc về việc chăm sóc, giáo dục của trại.

Có một điều xảy ra ở trại mà về sau, viết hồi ký, anh vẫn còn rùng mình. Khắc phục khó khăn về vật chất còn dễ hơn nhiều lần chống lại sự phá hoại của địch, bọn sĩ quan tù binh ngoan cố, bọn gián điệp địch cài vào. Một tên giả danh “y tá” đầu hàng mang theo một hộp to thuốc ký ninh “bào chế lại”. Địch hy vọng với số thuốc giả này sẽ giết chết nhiều bệnh nhân, gây hoang mang và làm mất uy tín kháng chiến. Rất may, ta đã kịp thời phát hiện và bẻ gãy cái bẫy này, không để xảy ra tai họa.

Lập công xuất sắc ở mặt trận, Nguyễn Văn Lập được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam năm 1949 ở Đảng bộ Tiểu đoàn 365 đóng ở Phú Yên.

Sau Hiệp định Genève 1954, anh được phân công dẫn tù binh trao trả ở Quy Nhơn, rồi đi tập kết. Ra miền Bắc, anh tham gia chống đói, chống địch cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào miền Nam, bảo vệ đội cải cách ruộng đất, làm trung đội trưởng trung đội cung tiêu sân bay, làm phiên dịch tiếng Đức cho chuyên gia ở Nhà máy in Tiến Bộ, lái xe tải ở mỏ than Na Dương, mỏ thiếc Cao Bằng. Thỉnh thoảng được mời đi đóng các vai Tây trong phim. Có bộ phim, anh đóng cả bốn vai: lính chiến, sĩ quan, phi công... Bất cứ nhiệm vụ nào anh cũng làm hết sức mình với hiệu quả cao.

Năm 1958, anh kết hôn với một cô gái Hà Nội, sinh được bốn người con: một trai, ba gái. Tất cả đều được đặt tên Việt Nam: Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Thị Bạch Tuyết, Nguyễn Thị Bạch Nga, Nguyễn Thị Tự Do.

Trải qua quãng đời trẻ trung, sôi nổi, rất có ý nghĩa ở Việt Nam, anh gắn bó với đất nước này, đến mức không nghĩ đến việc rời Việt Nam, dù cuộc sống còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn.

Điều day dứt đối với anh là hơn mười năm xa gia đình, anh không được tin tức gì của mẹ. Năm 1954, anh nhờ một tù binh trở về cố quốc chuyển giúp bức thư đến mẹ anh. Cuối năm, anh nhận được thư trả lời. Anh “đọc suốt mười ngày, cứ giở ra là khóc”. Mẹ anh  viết: bà đã mặc áo đen và dặn anh trở về vuốt mắt cho mẹ.

Đáp lại ước nguyện của mẹ than yêu, năm 1965, anh cùng các con rời quê ngoại về cố hương Hy Lạp. Anh nhớ lại: “ Trước đó mẹ tôi luôn luôn mặc bộ đồ đen vì tưởng đứa con trai yêu quý của mình đã chết trận! Tôi về, mẹ tôi đã lập tức thay bộ đồ đen ấy”.

Năm đầu về Hy Lạp, gia đình anh gặp vô vàn khó khăn, túng bấn. Không có quốc tịch Hy Lạp, vắng mặt quá lâu lại không trải qua quân dịch, nên anh không tìm được việc làm, không có gì để ăn. Sống trong một căn buồng 10m2 do bố mẹ để lại, anh thường ra nhà hàng xin đầu gà, chân gà mà người ta loại bỏ, về nấu ăn. Anh không dám nhận mình là người Hy Lạp, nói dối là lấy những thứ trên về làm thuốc chữa bệnh! Mỗi ngày một bọc chân gà, đầu gà đã nuôi sống cả gia đình anh trong một năm.

Thế rồi bằng lái xe ở Việt Nam của anh được thừa nhận có giá trị và anh được công nhận lại là công dân Hy Lạp. Đã ngoài 40 tuổi, anh đi lái xe tải kiếm sống. Ngày đầu tiên đi làm, cháu Thành ôm bố: “Bố ơi hết lo rồi”. Hai bố con đều khóc. Cuộc sống vất vả nhưng cả bốn cháu (ba người sinh ở Việt Nam và con gái út sinh ở Hy Lạp) đều được học hành và thành đạt.

***

Năm 1975, nghe tin Việt Nam hoàn toàn đại thắng, thống nhất đất nước, Kostas Sarantidis nhảy lên vì quá sung sướng. Ông đã giữ rất cẩn thận các kỷ vật về Việt Nam. Ngay cả chiếc mũ cối mà ngày nay người Việt Nam cũng ít dùng, ông kè kè mang theo cả những khi đi ra nước ngoài.

Từ ngày trở về Hy Lạp đến nay, suốt 48 năm, ông luôn hướng về Việt Nam, luôn coi mình là công dân Việt Nam, quê hương thứ hai. Ông tham gia Đảng Cộng sản Hy Lạp, làm đầu mối liên lạc giữa các tổ chức Đảng, công đoàn, Đoàn thanh niên Việt Nam sang thăm Hy Lạp với các cơ quan hữu quan ở Hy Lạp, làm nòng cốt vận động thành lập Hội Kiều bào yêu nước, vận động quyên góp tiền và đem sang Việt Nam ủng hộ nạn nhân bị bão lụt ở Quảng Nam (2007), Hà Tĩnh (2010), trực tiếp giúp đỡ hai cháu bé bị bệnh tim bẩm sinh ở Sóc Sơn (2009). Ông viết và in cuốn hồi ký Tại sao tôi theo Việt Minh,  tự mình đem in rồi đi bán lấy tiền ủng hộ Quỹ nạn nhân chất độc da cam ở Đà Nẵng (2010). Tổng số tiền đóng góp cho các quỹ ủng hộ Việt Nam lên đến trên 150 triệu đồng. Ông đã nhiều lần trở lại Việt Nam, thăm lại chiến trường xưa ở Khu 5, dự kỷ niệm Ngày thành lập Trung đoàn 803, gặp lại đồng đội, bà con nông dân ở các làng quê nơi ông đã từng sống, dự Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc... Có lần ông tháp tùng Tổng thống Hy Lạp sang thăm Việt Nam. Ông được các nhà lãnh đạo Việt Nam Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Minh Triết... tiếp thân mật.

Nhà nước Việt Nam đã tặng ông nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Chiến công hạng nhất, Huân chương Hữu nghị... Ngày 9/11/2010, ông đã được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định công nhận là công dân Việt Nam – điều mà ông hằng mong đợi trong nhiều năm. Ban liên lạc Trung đoàn 803 đề nghị Nhà nước ta phong tặng ông danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang.

Quãng đời chiến đấu, hoạt động sôi nổi, hào hùng trong Quân đội Nhân dân Việt Nam được ông ghi lại rất chân thật, sống động trong hai tập hồi ký: Tại sao tôi theo Việt Minh và Ở một trại tù binh Nam Việt Nam. Đây là hai tác phẩm có giá trị lịch sử, tư tưởng, văn học rất hấp dẫn, lý thú, bổ ích.

Đặng Minh Phương