Bác sĩ - Anh hùng Phạm Ngọc Thạch qua hồi ức con gái

COLETTE PHẠM NGỌC THẠCH

Nhân kỷ niệm 100 năm sinh (1909–2009), 40 năm ngày mất của Bác sĩ – Anh hùng Phạm Ngọc Thạch, Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch nhận trách nhiệm biên soạn, in ấn quyển sách Bác sĩ – Anh hùng Phạm Ngọc Thạch và sự tiếp nối. Đây là công trình tiếp nối quyển sách Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch – người thầy thuốc của dân, có bổ sung một số bài viết mới. Đặc biệt, những hồi ức, chuyện kể của những người thân yêu của cố Bộ trưởng trong tập sách giúp những người đang sống hiểu thêm tư chất con người giàu tình cảm, giàu tri thức của một người bác sĩ, anh hùng: Con người ấy đã đặt Tổ quốc lên trên tất cả, trên cả tình yêu và cái chết!

Năm 1945, Thống đốc Nhật ở Nam Kỳ trao cho bác sĩ Phạm Ngọc Thạch thanh kiếm lệnh với mưu đồ mở rộng quyền lực phát–xít ở Đông Dương, nhưng ông đã dùng nó xây dựng lực lượng Thanh niên Tiền phong – một lực lượng góp phần quan trọng làm nên Cách mạng Tháng Tám. Thanh kiếm ấy ngày nay không Bảo tàng nào còn lưu giữ. Nhưng không vì vậy mà quyền lực của ông mất đi. Đó là quyền lực tỏa rộng từ lòng ái quốc, tài năng, lòng trong sáng, nồng nhiệt của ông dành cho cuộc đời đến hơi thở, giọt máu cuối cùng. “Quyền lực” ấy truyền dẫn đến lớp lớp thế hệ mai sau. Và vì thế mà ông trở nên bất tử.

Cuộc đời và sự nghiệp, sự hy sinh cao cả của Bác sĩ, Anh hùng Phạm Ngọc Thạch là di sản quý báu cho những người đang sống và thế hệ tiếp nối. Trong quá trình thực hiện quyển sách, gia đình Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đã thường xuyên liên hệ, gửi bài và thông qua anh Nguyễn Ngọc Giao đã chuyển đến chúng tôi hồi ức cảm động của bà Colette Phạm Ngọc Thạch về người cha anh hùng của mình. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.(*)

Ba má tôi gặp nhau ở Hauteville (tỉnh Ain, Pháp) vào những năm 1934-1935. Ba tôi tốt nghiệp bác sĩ chuyên khoa về phổi và lao, làm việc ở bệnh viện điều trị lao, nơi mẹ tôi làm y tá. Rất nhanh chóng, họ cảm mến nhau, rồi yêu nhau thực sự.

Nhưng Ba nhất quyết phải về nước và có ý định mở phòng mạch ở Sài Gòn. Ba ngỏ ý muốn kết hôn với má nếu má đồng ý sang Việt Nam. Song ba cũng thổ lộ: “Em phải hiểu cho anh là đối với anh, mục đích tối thượng là đất nước độc lập. Nếu em đồng ý như thế thì chúng ta sẽ kết hôn ở Sài Gòn”. Má tôi nhận lời, và năm 1936, bà đáp tàu thủy sang Việt Nam. Ba má tôi thành hôn ngày 27 tháng 1 năm 1937, mấy năm sau hai chị em tôi ra đời…

Ngày 2 tháng 9 năm 1945. Tôi lên bảy. Tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập. Cả nước mừng vui. Sài Gòn chào mừng sự kiện lịch sử này theo cách của mình. Một cuộc biểu tình được Uỷ ban Hành chánh Nam Bộ tổ chức, 200.000 người hồ hởi tham gia trong trật tự.


BS Phạm Ngọc Thạch vô cùng hạnh phúc, xúc động khi gặp hai con ở chiến khu chống Pháp.
Ảnh Phạm Ngọc Định cung cấp.

Má và hai chị em chúng tôi, cùng với bà hàng xóm người Pháp, vợ của bác sĩ Ngô Quốc Quyền, và ba người con, đi bộ từ nhà chúng tôi ở đường Léon Combes (nay là đường Sương Nguyệt Anh) về hướng trung tâm Sài Gòn. Chúng tôi bước đi, an nhiên giữa đám đông phấn khởi. Bỗng nhiên, có tiếng súng nổ. Khiêu khích chăng? Làm sao biết được. Đám đông hoảng sợ, la hét, chạy tán loạn, người nào người nấy tìm chỗ trú.

Lúc ấy, tôi cầm tay Marie-Thérèse, con gái lớn của bà Quyền. Má thì nắm chặt tay Alain, em trai tôi. Một lúc sau, chúng tôi lạc nhau. Marie-Thérèse và tôi chạy vào trú ẩn trong căn nhà phụ của mấy người bồi bếp thuộc một biệt thự không xa Nhà thờ Đức Bà. Nhiều người Pháp cũng chạy vào đó như chúng tôi. Nhưng chúng tôi không thấy má, Alain, bà Quyền và hai đứa con bà Quyền đâu cả.

Xế chiều, người ta đưa tất cả chúng tôi lên một cái xe cam-nhông. Trên xe đầy những người Pháp lượm từ mấy nơi khác nữa. Xe chạy về Khám Lớn. Người ta tập trung chúng tôi ở sân nhà tù. Tôi để ý tới một người có vẻ quan trọng, nên đến nói với ông ta bằng tiếng Việt là tôi muốn tìm má, má tôi là người Pháp. Ông ta ra lệnh cho tất cả những người Pháp đang tập trung trong Khám Lớn diễu hành qua mặt chúng tôi, nhưng tôi không thấy má tôi đâu cả. Lúc đó tôi mới nói với ông: “Ba cháu là bác sĩ Phạm Ngọc Thạch”. Ông ta trố mắt nhìn tôi, rồi bảo tôi đợi đó.

Vài phút sau, ông ta quay trở lại, nắm tay tôi, đưa lên xe, dẫn tôi tới Dinh toàn quyền. Chúng tôi bước vào tòa nhà nguy nga, đèn thắp sáng trưng. Ông ta vẫn nắm tay tôi, dẫn tôi leo lên bậc thang hoành tráng. Trên lầu, ai đây? Ba tôi! Uỷ viên ngoại giao Uỷ ban Hành chánh Nam Bộ, Bộ trưởng Bộ y tế của Chính phủ lâm thời mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa thành lập, ba tôi đang thảo luận sôi nổi với những sĩ quan cao cấp Nhật.

Ba ngạc nhiên hỏi tôi: “Sao con lại tới đây?” - “Con lạc má, lạc Alain rồi”. Ba tôi vội chia tay với mấy quan chức Nhật Bản, cảm ơn người đàn ông đã đưa tôi tới, và trên chiếc xe nhà Citroën 11 loại nhẹ, cha con tôi đã lùng khắp các bệnh viện Sài Gòn, Chợ Lớn. Cuối cùng cũng tìm ra má và Alain trong một trạm y tế Chợ Lớn. Má bị thương nặng ở mặt (mấy vết thương sâu hoắm, mấy cái răng bị gãy), còn em Alain bị vết thương ở trán, phải khâu 10 mũi kim.

Má kể lại, trong cơn hoảng loạn, má cầm tay Alain, cùng với bà Quyền và hai người con trai, chạy vào một ngôi nhà - sau này mới biết là dường như mấy phát súng bắn ra từ chính ngôi nhà đó - Vì lí do đó mà khi tìm ra những người Pháp đang ẩn nấp tại đây, bà Quyền bị đâm chết trước và hung thủ tiến về phía má, bà vội kêu lên: “Đừng giết tôi, tôi là vợ bác sĩ Phạm Ngọc Thạch”. Đúng lúc đó, có một người đi qua, can ngăn hung thủ: “Đừng giết bả. Kiểm tra lại xem bả nói có thiệt không”. Nhờ vậy mà má thoát chết.


Bà Marie Louise (vợ BS Phạm Ngọc Thạch thời trẻ).

Cái trí dũng của má, chính là ở đó. Sự việc xảy ra như thế vào ngày 2/9/1945 nhưng không bao giờ má oán hận người Việt Nam. Ngược lại, má một lòng sát cánh với ba trong cuộc đấu tranh vì độc lập. Suốt đời, má vẫn thủy chung, tận tụy và dũng cảm.

- Ngày 23 tháng chín 1945. Lúc 4 giờ sáng hôm ấy, ba tôi lên đường ra bưng, trên xe - vẫn cái xe Citroën 11 ấy - chở kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát và một người nữa tôi không nhớ tên. Ít lâu sau, người ta tìm thấy cái xe nằm trên một thửa ruộng…

- 9 giờ sáng, mấy sĩ quan Pháp xông đến nhà tôi, 106 đường Léon Combes, để bắt ba tôi. Má nói với họ: “Các ông đến quá muộn. Chồng tôi đã đi rồi”.

- Khoảng 1946-1947, một lần nữa, má biểu hiện sự ngoan cường và thuỷ chung của mình đối với đất nước Việt Nam bằng cách nuôi giấu trong một căn phòng dành cho người làm, một người đã phá nổ một kho đạn, thân thể bị cháy bỏng cấp ba. Anh được bôi thuốc cao tàu, nhưng vết bỏng không lành mà còn nặng hơn. Má đã chăm lo cho anh suốt ba tháng trời, như một bà nữ thánh. Khi đã khỏi hẳn, anh tặng má một pho tượng Đức Mẹ bằng ngà. Anh là người Công giáo.

- Từ 1946 đến 1949, có hai lần chúng tôi theo má ra chiến khu thăm ba. Lần thứ ba, má đi một mình.

Được đi thăm ba, tất nhiên chúng tôi vui sướng vô cùng. Ba tôi ở một ngôi nhà tranh khá rộng. Tối đến, ba má ngủ chung một giường, hai chị em chúng tôi một giường. Nhưng chúng tôi cãi nhau, đánh lộn như chó với mèo, ba má buộc phải tách chúng tôi ra: má ngủ cùng giường với Alain, ba cùng giường với tôi. Tôi còn nhớ được nằm gọn trong lòng ba, sung sướng vô cùng…


BS Phạm Ngọc Thạch gặp lại vợ và con trai trong chuyến công tác sang Pháp những năm 1960.

Lần thứ nhất ra bưng, chúng tôi được gặp chú Phan Trọng Tuệ. Chú Tuệ ngồi bảnh chọe trên một con ngựa rất đẹp, đầu đội cái mũ cao bồi bằng vải, oai lắm. Chú cho tôi leo lên ngựa và đưa tôi đi chơi rất lâu, trên những con đường trong khu an toàn.

Lần thứ nhì theo má ra bưng, chúng tôi băng qua đồng ruộng nghỉ đêm trong nhà tranh của một bà nông dân đồng bằng sông Cửu Long. Má ăn mặc như một bà nhà quê (áo dài, quần đen). Sáng hôm sau, bà chủ nhà ngạc nhiên, nói với người giao liên đi cùng chúng tôi: “Bà này người Ta mà chân cẳng trắng quá vậy…”

- Tháng 1/1957. Ba má con chúng tôi rời Pháp đi Hà Nội, với nguyện vọng được sống đoàn tụ với ba…

Biết tính khắc khổ của ba, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho mang tới nhà một bộ bát đĩa đẹp để “cải thiện đời sống”. Thế là ba tôi bắt trả lại hết! Ba biểu không có lí do để gia đình chúng tôi được ưu đãi hơn những gia đình khác đang phải sống thiếu thốn.

- Một lần, trong thập niên 1960, tôi ở nhà một mình với ba, tại căn hộ của má ở Ivry-sur-Seine (ngoại ô Paris). Tôi vào bếp chuẩn bị bữa ăn tối. Đang làm bếp, tôi bỗng quay đầu lại. Ba ngồi bên bàn bếp, nước mắt chảy ròng ròng… Sau bao nhiêu năm xa cách, ba tôi xúc động khi thấy con gái chăm lo cho mình…

Cũng hồi ấy, trong những năm 1960, với tư cách Bộ trưởng Bộ Y tế Việt Nam dân chủ cộng hòa, ba tôi dẫn đầu một phái đoàn sang Paris theo lời mời của chính phủ Pháp. Phái đoàn được xếp ở Crillon, một trong những khách sạn sang trọng nhất thủ đô.

Bỗng dưng ba tôi biến mất!… Sứ quán nhộn nhạo đi tìm, các thành viên trong đoàn cũng thế. Hóa ra hôm ấy, ba đã kín đáo ra khỏi khách sạn, quyết định… “trốn học một buổi”. Một mình ba đi xe điện ngầm, thăm lại những khu phố quen thuộc của thời trẻ, sống những giây phút tự do… Cuối cùng, người ta đã tìm thấy ba ở Ivry-sur-Seine, nhà má… Trong những lần sau sang Pháp, vẫn theo lời mời của chính phủ Pháp, ba vẫn chọn ở căn hộ 3 phòng, đơn sơ của má hơn là ở khách sạn sang trọng.

- Hà Nội, năm 1968. Tôi sống ba tháng liền ở thủ đô Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Ba thích nghe tôi hát bài Il n’y a pas d’amour heureux, Chẳng mối tình nào hạnh phúc, thơ của Louis Aragon, do Georges Brassens phổ nhạc.

Ba tôi căn dặn anh Tước, người giúp việc thân cận, không được mua gì ở cửa hàng Tôn Đản. Ba muốn tôi cũng như ba, ăn những thức ăn của người dân bình thường.

- Tháng 7/1968. Lá thư cuối cùng ba gửi cho tôi nghe như một lời từ biệt: “Ba đi chuyến này rất lâu. Con gái của ba hãy dũng cảm và xứng đáng”. Bốn tháng sau, ba mất tại Tây Ninh.

Trong bức thư gửi tôi, bác Tô viết: “Ngày nào bác cũng nghĩ tới ba cháu, mà nghĩ tới là bác khóc”.

Tháng 12/1968. Thi hài của ba tôi chôn cất ở miền Nam. Lễ truy điệu trọng thể được tổ chức tại Hà Nội. Alain và tôi về dự, thay mặt cho cả gia đình. Trong nỗi đau, má không đủ sức đi. Má đan một chiếc khăn quàng len tặng Bác Hồ. Đến Hà Nội, việc đầu tiên tôi làm là nhờ chuyển ngay món quà má tặng Bác.

Ngày lễ tang, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Đảng - bác Ba Duẩn, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Chủ tịch Quốc hội - bác Trường Chinh, Bộ trưởng Quốc phòng - chú Võ Nguyên Giáp đều có mặt. Trông thấy chị em chúng tôi, Bác Hồ nước mắt rưng rưng, trỏ tay cho chúng tôi thấy Bác đang choàng cái khăn quàng cổ má tôi đan.


Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Colette (Phạm Thị Như Mai, đứng thứ hai từ trái) và Alain Phạm Ngọc Định (đứng, bìa phải) tại Hà Nội, năm 1969. Ảnh Phạm Ngọc Định cung cấp.

Tháng 11/1998. Tôi về Thành phố Hồ Chí Minh cùng với cô Thanh, em dâu. Chúng tôi được mời về dự ngày giỗ ba lần thứ 30. Chúng tôi đã dự nhiều cuộc lễ ở Tây Ninh, Thủ Đức, Dinh Độc Lập ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi ở nhà khách của Bộ ngoại giao, đường Phạm Ngọc Thạch.

Một buổi tối, tôi đi taxi đến nhà em dâu. Tôi cố nói vài câu tiếng Việt mà tôi còn nhớ lõm bõm. Anh tài xế hỏi sao tôi nói đặc sệt giọng Nam Bộ như vậy. Tôi trả lời tôi sinh tại Sài Gòn, ba tôi là người Việt. Anh gạn hỏi: “Ba cô làm chi?” - “Ba tôi là bác sĩ Phạm Ngọc Thạch”. Nghe tôi nói tên ba, anh taxi thắng xe ở giữa đường, quay lại nhìn tôi như nhìn một bóng ma hiện hình… Anh cảm động, kể vanh vách tiểu sử ba tôi. Anh ta biết hết về ba dù anh mới ba mươi tuổi, tuổi gọi ba tôi là ông nội, ông ngoại…

Đời ba tôi được đánh dấu bằng những ngày tháng gắn liền với lịch sử Việt Nam thế kỉ XX:

- Ba tôi sinh ngày 7/5/1909, ngày mà 45 năm sau đó, ngày 7/5/1954, chính là chiến thắng vang dội đầu tiên của Việt Nam đối với thực dân Pháp.

- Ông mất vào ngày 7 tháng 11 (7/11/1968). Đối với một con người cách mạng như ông, cũng như đối với mọi nhà cách mạng Việt Nam, Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917 đã trở thành nguồn cổ vũ, là mối hy vọng tràn trề của các dân tộc bị áp bức.

- Lễ cưới của ba má tôi được tổ chức vào ngày 27/1/1937, chính vào ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris về Việt Nam đã được kí kết, chấm dứt việc Mỹ ném bom nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

- Alain, cậu em trai của tôi sinh vào tháng 8, chính là tháng 8 của cách mạng Việt Nam: Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

- Cuối cùng sự kiện thứ 5 có lẽ là sự kiện quan trọng nhất. Tôi sinh tại Sài Gòn ngày 30 tháng 4, vào giữa trưa, tại số nhà 202 đường Chasseloup Laubat (nay là Nguyễn Thị Minh Khai), chỉ cách Dinh Độc Lập có mấy trăm mét, mà chính ngày này, 30/4/1975, cũng vào giữa trưa, Chính quyền Sài Gòn đã sụp đổ. Đó chính là chiến thắng vĩ đại thứ 2 của Việt Nam, lần này là đối với đế quốc Mỹ.

Viết đến đây, tôi muốn liên kết lòng tôn kính ba tôi với lòng tưởng nhớ đến người mẹ rất thân yêu, Marie Louise Phạm Ngọc Thạch. Bà mất ngày 18/12/1996, sau một căn bệnh đau đớn kéo dài. Bà đã là một chiến sĩ không mệt mỏi vì chính nghĩa Việt Nam. Sự chung thủy và lòng dũng cảm của bà là một tấm gương sáng.

Năm 1936, sau khi đã hoàn thành việc học chuyên khoa về lao phổi, và trở về Việt Nam, ba đã viết những dòng sau đây cho má: “Anh cần phải cho em biết là đất nước anh luôn luôn trên tất cả. Suốt đời, anh sẽ đấu tranh cho đất nước anh được tự do và độc lập. Nếu em đồng tình, hãy đến với anh. Chúng ta sẽ sống bên nhau”. Và giữa những năm 30 mà sự đàn áp của thực dân vô cùng ác liệt (thuở đó, nhà báo Andrée Viollis đã viết quyển sách: Đông Dương kêu cứu – Indochine S.O.S), mẹ tôi đã đương đầu với những ràng buộc của một gia đình Pháp, Công giáo và cổ kính, đã vượt biển đến với một người chồng chưa cưới đang đợi mình ở Sài Gòn. Tám năm sau, ngày 23/9/1945, ba đã vào chiến khu tham gia cuộc kháng chiến thứ nhất.

Tôi xin gửi đến hai người bạn chiến đấu tuyệt vời của ba, bác Phạm Văn Đồng và chú Võ Nguyên Giáp lòng kính mến vô hạn. Mặc dù hôm nay, bác Phạm Văn Đồng đã mất, chú Võ Nguyên Giáp không có mặt trong buổi tưởng niệm ba, nhưng tôi tin chắc tấm lòng của hai vị vẫn luôn ở cạnh ba và chúng tôi.

(*)

Trầm Hương