Bản dịch thơ "Trường hận ca" của Ngô Linh Ngọc


Ngô Linh Ngọc (1922 – 2004) là một tài năng dịch thơ chữ Hán xuất sắc. Anh xuất thân gia đình nhà nho, giỏi chữ Hán, làm câu đối chữ Hán, làm câu đối, làm thơ Đường thông thạo.

Anh lại sành cả tiếng Anh, tiếng Pháp, ca trù,… nghĩa là người có một văn hóa tích hợp Đông – Tây. Cuộc đời anh đi bộ đội kháng Pháp, làm báo, nhà nghèo, con đông…; anh làm thơ châm biếm cho báo và dịch thơ cha ông (Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm, Cao Bá Quát,…)

Nhưng một số bản dịch thơ Đường của anh còn ít người biết. Tản Đà là một danh gia, một đại danh gia trong dịch thơ Đường. Nhưng cũng vì nhà nghèo túng, nhiều khi ông dịch vội để đưa kịp tòa soạn (Ngày Nay, ở Quán Thánh cho Khái Hưng), mà đôi khi ông để lại tý vết.

Ngô Linh Ngọc vừa có tài, có tình, vừa yêu thơ Đường, vừa dịch kỹ, bản dịch của ông sửa được cái tỳ vết cũ, và nhiều câu dịch xuất thần. Bản dịch Trường hận ca này là một lệ chứng. Chúng ta hãy đối chiếu bản chữ Hán với các bản dịch đã có, kể cả của Tản Đà, thì khắc thấy.

Lúc anh còn sống, tôi có lời khen anh, anh nói: “Tản Đà mất lúc 49 tuổi, mình nay hơn 70, đã dịch thêm mấy chục năm…” Thì ra là thế, làm gì cũng phải có tài, nhưng phải có công làm đi làm lại “thiên đoàn bách luyện, ngữ ngữ kinh nhân” (trăm nghìn lần rèn luyện, lời lời làm kinh ngạc mọi người)…

MAI QUỐC LIÊN

Bản chữ Hán Trường hận ca.

Phiên âm:

 

TRƯỜNG HẬN CA

Bạch Cư Dị

Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc
Ngự vũ đa niên cầu bất đắc
Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành
Dưỡng tại thâm khuê nhân vị thức
Thiên sinh lệ chất nan tự khí
Nhất triêu tuyển tại quân vương trắc
Hồi đầu nhất tiếu bách mị sinh
Lục cung phấn đại vô nhan sắc
Xuân hàn tứ dục Hoa Thanh trì
Ôn tuyền thủy hoạt tẩy ngưng chi
Thị nhi phù khởi kiều vô lực
Thủy thị thân thừa ân trạch thì
Vân mấn hoa nhan(1) kim bộ dao
Phù dung trướng noãn(2) độ xuân tiêu
Xuân tiêu khổ đoản nhật cao khởi,
Tòng thử quân vương bất tảo triều
Thừa hoan thị yến(3) vô nhàn hạ
Xuân tùng xuân du dạ chuyển dạ
Hậu cung giai lệ(4) tam thiên nhân
Tam thiên sủng ái tại nhất thân
Kim ốc trang thành kiều thị dạ
Ngọc lâu yến bãi túy hòa xuân
Tỷ muội, đệ huynh giai liệt thổ
Khả liên quang thái sinh môn hộ
Toại linh thiên hạ phụ mẫu tâm
Bất trọng sinh nam trọng sinh nữ
Ly cung cao xứ nhập thanh vân
Tiên nhạc phong phiêu xứ xứ văn
Hoãn ca mạn vũ ngưng ti trúc
Tận nhật quân vương khan(5) bất túc
Ngư Dương bề cổ động địa lai
Kinh phá Nghê thường vũ y khúc
Cửu trùng thành khuyết yên trần sinh
Thiên thặng vạn kỵ tây nam hành
Thúy hoa dao dao hành phục chỉ
Tây xuất đô môn bách dư lý
Lục quân bất phát vô(6) nại hà
Uyển chuyển nga my mã tiền tử
Hoa điền ủy địa vô nhân thâu
Thúy kiều, kim tước, ngọc tao đầu
Quân vương yểm diện cứu bất đắc
Hồi khan(7) huyết lệ tương hòa lưu
Hoàng ai tản mạn phong tiêu tác
Vân sạn oanh vu(8) đăng kiếm các
Nga my sơn hạ thiểu nhân hành
Tinh kỳ vô quang nhật sắc bạc.
Thục giang thủy bích Thục sơn thanh
Thánh chủ triêu triêu mộ mộ tình
Hành cung kiến nguyệt thương tâm sắc.
Dạ vũ văn linh trường đoạn thanh
Thiên toàn nhật chuyển hồi long ngự
Đáo thử trù trừ bất năng khứ.
Mã Ngôi pha hạ nê(9) thổ trung
Bất kiến ngọc nhan không tử xứ
Quân thần tương cố tận triêm y
Đông vọng đô môn tín mã quy
Quy lai trì uyển giai y cựu
Thái Dịch phù dung Vị Ương liễu ;
Phù dung như diện liễu như mi
Đối thử như hà bất lệ thùy
Xuân phong đào lý hoa khai dạ(10)
Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì
Tây cung nam uyển(11) đa thu thảo
Cung(12) diệp mãn giai hồng bất tảo
Lê viên đệ tử bạch phát tân,
Tiêu phòng a giám thanh nga lão
Tịch điện huỳnh phi tứ tiễu nhiên
(13) đăng thiêu tận vị thành miên
Trì trì chung cổ sơ trường dạ,
Cảnh cảnh tinh hà dục thự thiên
Uyên ương ngõa lãnh sương hoa trọng
Phỉ thúy khâm hàn(14) thùy dữ cộng
Du du sinh tử biệt kinh niên
Hồn phách bất tằng lai nhập mộng
Lâm Cùng đạo(15) sĩ Hồng Đô khách
Năng dĩ tinh thành chí hồn phách
Vị cảm quân vương triển chuyển tư(16)
Toại giao phương sĩ ân cần mịch
Bài không(17) ngự khí bôn như điện
Thăng thiên nhập địa cầu chi biến
Thượng cùng bích lạc hạ hoàng tuyền
Lưỡng xứ mang mang giai bất kiến
Hốt văn hải thượng hữu tiên sơn
Sơn tại hư vô phiếu diểu gian
Lâu các(18) linh lung ngũ vân khởi
Kỳ trung xước ước đa tiên tử
Trung hữu nhất nhân tự Thái Chân(19)
Tuyết phu hoa mạo sâm si thị
Kim khuyết tây sương(20) khấu ngọc quynh
Chuyển giao Tiểu Ngọc báo Song Thành
Văn đạo Hán gia thiên tử sứ
Cửu hoa trướng lý(21) mộng hồn kinh
Lãm y thôi chẩm khởi bồi hồi
Châu bạc ngân bình(22) lị dĩ(23) khai
Vân mấn(24) bán thiên tân thụy giác
Hoa quan bất chỉnh hạ đường lai
Phong xuy tiên duệ phiêu phiêu cử
Do tự Nghê thường vũ y vũ
Ngọc dung tịch mịch lệ lan can
Lê hoa nhất chi xuân đới vũ
Hàm tình ngưng thế(25) tạ quân vương
Nhất biệt âm dung lưỡng diểu mang
Chiêu Dương điện lý ân ái tuyệt
Bồng Lai cung trung nhật nguyệt trường
Hồi đầu hạ vọng(26) nhân hoàn xứ
Bất kiến Trường An kiến trần vụ
Duy tương(27) cựu vật biểu thâm tình
Điến hạp kim thoa ký tương khứ
Thoa lưu nhất cổ, hạp nhất phiến
Thoa phách hoàng kim hạp phân điến
Đãn giao(28) tâm tự kim điến kiên
Thiên thượng nhân gian hội tương kiến
Lâm biệt ân cần trụng ký từ
Từ trung hữu thệ lưỡng tâm tri
Thất nguyệt thất nhật Trường Sinh điện
Dạ bán vô nhân tư ngữ thì
“Tại thiên nguyện tác(29) tỵ dực điểu,
Tại địa nguyện vi liên lý chi”
Thiên trường địa cửu hữu thì tận,
Thử địa miên miên vô tuyệt kỳ.


CHÚ THÍCH

Chúng tôi lấy bản Trường hận caToàn Đường thi (TĐT) quyển hạ, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 1996, trang 1075 làm bản gốc và chú theo TĐT.

(1)

Bản khác chép là quan

(2)

Bản khác chép là lý noãn 裏暖

(3)

Bản khác chép là tẩm

(4)

Bản khác chép là Hán

(5)

Bản khác chép là thính

(6)

Bản khác chép là tri

(7)

Bản khác chép là thủ

(8)

Bản khác chép là hồi

(9)

Bản khác chép là trần

(10)

Bản khác chép là nhật

(11)

Bản khác chép là nội

(12)

Bản khác chép là lạc

(13)

Bản khác chép là thu

(14)

Bản khác chép là Cựu chẩm cố khâm 舊枕故衾

(15)

Bản khác chép là phương

(16)

Bản khác chép là ân

(17)

Bản khác chép là vân

(18)

Bản khác chép là điện 殿

(19)

Bản khác chép là Ngọc Chân 玉眞, lại có bản chép là Ngọc Phi 玉妃

(20)

Bản khác chép là lưỡng

(21)

Bản khác chép là hạ

(22)

Bản khác chép là câu

(23)

Bản khác chép là dĩ lị 迤邐

(24)

Bản khác chép là kế

(25)

Bản khác chép là thế

(26)

Bản khác chép là vấn

(27)

Bản khác chép là không trì 空持

(28)

Bản khác chép là linh

(29)

Bản khác chép là vi

Dịch thơ:

TRƯỜNG HẬN CA


Bạch Cư Dị (nguyên tác)
Ngô Linh Ngọc (dịch)

Hán hoàng chuộng sắc nghiêng thành,
Bao năm cầu ước vẫn đành mộng suông.
Non tơ, có gái họ Dương,
Phòng khuê chưa kẻ tỏ tường âm hao.
Của trời bỏ phí được nào?
Một mai sớm đã tuyển vào bên vua;
Một cười trăm đẹp nở đua,
Sáu cung phấn nhạt, son mờ, kém duyên.
Xuân hàn, tắm nướ ôn tuyền,
Ao Hoa rộn váng mỡ in da ngà(1)
Thị tì nâng, lả vóc hoa,
Móc mưa từ đó chan hòa nguồn ơn.
Sen vàng dạo, tóc mây rờn,
Màn phù dung ấm, dập dồn đêm xuân.
Đêm xuân ngắn ngủi có ngần,
Buổi mai từ ấy thánh quân bỏ chầu.
Liên miên tiệc múa, buổi hầu,
Đêm nồng, xuân thắm nỗi đau chẳng ngừng.
Ba nghìn người đẹp hậu cung,
Ba nghìn ân ái dồn chung một người!
Nhà vàng quấn quýt đêm dài,
Xuân nồng lầu ngọc sau hồi tiệc tan.
Anh em: cắt đất, phong quan,
Khéo thay rạng rỡ vinh quang một nhà!
Khiến cho khắp bậc mẹ cha,
Trọng điều đẻ gái hơn là sinh trai.
Ly cung mây cuốn lưng trời,
Nhạc tiên gió thoảng khắp nơi nghe cùng.
Trúc sênh, múa hát tưng bừng,
Thâu ngày thánh đế không ngừng ngự coi!
Ngư Dương trống nổi long trời,
Khúc Nghê thường thoắt tơi bời phá tan;
Chín lần thành khuyết khói ran,
Ngựa xe ùn hướng tây nam nhắm chừng;
Cờ hoa lúc trẩy, lúc dừng,
Cửa tây trăm mấy dặm đường đuổi mau.
Sáu quân chẳng tiến, biết sao?
Trước đầu ngựa để hoa đào rụng rơi!
Kim tước(2) gẫy, ngọc châm rời,
Cành thoa dưới đất, ai người nhặt đây!
Quân vương ôm mặt, bó tay,
Ngoảnh nhìn, máu lệ tuôn đầy, xót xa.
Hắt hiu gió táp, bụi nhòa,
Cheo leo Kiếm Các, mây sà lối đi.
Vắng teo dưới núi Nga Mi,
Vầng dương úa, sắc tinh kỳ nhạt tanh.
Sông Thục biếc, núi Thục xanh,
Sớm chiều ngơ ngẩn tấm tình quân vương.
Hành cung, nguyệt gợi niềm thương,
Đêm mưa nghe vẳng tiếng chuông não lòng.
Đất trời chuyển vận hồi long,
Xe qua chốn cũ, dễ hòng trẩy ngay:
Gò Mã Ngôi, bãi bùn đây,
Thấy đâu mặt ngọc chốn này thác oan!
Vua tôi nước mắt đầm khăn,
Ngựa quen đường, hướng đồng thành duổi bay.
Vườn xưa, hồ cũ còn đây,
Phù dung Thái Dịch, liễu gầy Vị Ương.
Khôn ngăn lệ ứa đôi hàng:
Phù dung như mặt, liễu dường nét mi!
Mận đào nở: gió xuân về,
Ngô đồng trút lá giữa kỳ mưa thu.
Cỏ thu ngập lối cung xưa,
Đầy thềm lá đỏ quét vơ ai người!
Phường Lê viên, tóc bạc rồi,
Tiêu phòng, thể nữ hết thời mày xanh!
Đóm bat điện vắng buồn tênh,
Đèn khuya khêu cạn chẳng thành giấc hoa.
Trầm trầm trống điểm canh tà,
Dòng Ngân sao dọi ngỡ òa nắng mai.
Ngói Uyên ương buốt sương rơi,
Chăn lồng Phỉ thúy ai người đắp chung!
Âm dương biền biệt cách trùng,
Hồn oan trong mộng chưa từng vãng lai.
Lâm Cùng đạo sĩ, có người
Thăm Hồng đô, đủ mọi tài thần thông.
Thương vua trằn trọc nhớ mong.
Cho người thuật sĩ dốc lòng tìm ngay.
Vèo vèo lướt gió, tung mây,
Cùng trời, cuối đát, xa bay, quản nào.
Suối vàng thẳm, vách mây cao,
Mênh mông hai cõi thấy đâu bóng người!
Non tiên, nghe thoảng, ngoài khơi,
Mơ màng giữa chốn tuyệt vời, hư không;
Lâu đài năm sắc mây lồng,
Bao nàng tiên tử bên trong quây quần.
Có nàng tên gọi Thái Chân,
Mặt hoa, da ngọc, mười phân giống nàng.
Mái tây gõ cửa then vàng,
Cậy nhờ Tiểu Ngọc báo sang Song Thành.
Rộn tin sứ giả Hán đình,
Tướng hoa thoắt bỗng giật mình, mộng tan;
Bồi hồi, gối cất, áo mang,
Rèm châu, bình ngọc nhẹ nhàng mở ra.
Bàng hoàng, vừa tỉnh giấc hoa,
Mũ nghiêng lệch, tóc mây sa nửa vời.
Gió tung tà áo bay lơi,
Khúc Nghê thường, rõ dáng người xưa kia!
Mặt buồn, lệ đẫm hàng mi,
Gió mưa xuân tưới cành lê ướt đầm!
Ngậm sầu muôn tạ ân thâm,
Chia phôi, vắng tiếng lặn tăm đôi đường.
Ái ân tàn điện Chiêu Dương,
Cung Bồng lai, tháng năm trường đã cam.
Ngoảnh đầu trông xuống trần gian,
Tràng An chẳng thấy, thấy toàn bụi nhơ.
Vật xưa, dãi tấm hình xưa,
Thoa vàng, hộp ngọc, xin chờ đem xuôi.
Thoa nửa nhánh, hộp chia đôi,
Thoa lưu đoạn ấy, hộp dời mảnh kia.
Xin như vàng, mãi gắn ghi,
Trên trời, dưới đất hẹn kỳ chung đôi.
Một câu nhắn gửi, cậy người,
Chỉ đôi lòng biết đó lời thệ minh.
Tiết “Song thất”, điện Trường Sinh,
Nửa đêm vắng, chỉ đôi minh riêng hay:
“Trên trời, chắp cánh chim bay,
Liền cành dưới đất, đôi cây chẳng dời”.
Trời nghiêng, đất sụt, có thời,
Hận này dằng dặc biết đời nào tan!


(1)

Nguyên văn: “tẩy ngưng chi” nghĩa là “rửa lớp mỡ đọng trên da”. Tạm dịch là “Ao Hoa rộn váng mỡ in da ngà”.

(2)

Thoa nhỏ bằng vàng chạm hình chim sẻ.