Ảnh: Bảo Lương - Trung Nguyệt thời thiếu nữ (Ảnh tư liệu do gia đình Bảo Lương cung cấp)
*
Bảo Lương sinh vào ngày rằm tháng 2 năm Kỷ Dậu (năm 1909), tại làng Bình Đại*, tỉnh Mỹ Tho. Cha mẹ bà đặt tên cho con gái là Trung Nguyệt với niềm mong ước khi lớn lên, bà sẽ là một cô gái xinh đẹp, tiết hạnh sáng rỡ như vầng trăng đêm rằm. Bà là số ít bé gái được học Hán văn với ông ngoại và cha, học chữ Quốc ngữ với chú.
Trung Nguyệt sớm có khiếu văn chương. Năm 12 tuổi, bà đã xướng họa thơ cùng cha trong những lúc nhàn tản. Năm 14 tuổi, bà đã nổi tiếng hay chữ, giỏi thơ phú trong vùng. Ở tuổi 16, tên tuổi bà đã vượt ra khỏi tỉnh lẻ, được giới thiệu và đăng thơ trên những tờ báo lớn ở Sài Gòn. Cha bà nung nấu trong lòng nỗi căm thù giặc Pháp sâu sắc. Trong những lúc xướng họa thơ, chơi cờ với con gái, ông luôn bộc bạch nỗi đau mất nước. Bà bộc bạch trong hồi ký: Dài theo tháng năm khôn lớn của tôi, cha luôn căm hận thực dân, rèn luyện cho tôi hiểu biết thêm sự tham ác của ngoại bang, và lòng thâm thù bọn xâm lược ngày càng cao độ… Ông Tòng là bạn cột chèo với ba tôi, thành ra câu chuyện “chống Pháp” và mưu việc tài chánh với bà Trần Ngọc Diện - chủ gánh hát Đồng Nữ Ban là dì tôi ra sao tôi đều nghe lọt…
Giữa đi và ở, giữa cam chịu và bức phá đối người phụ nữ như bà là cả một sự giằng xé dữ dội: … Dai dẳng suốt hai năm tranh chấp thành kiến của gia đình, đả phá thành trì lễ giáo bền hơn bất cứ loại sắt đá hữu hình nào, gạt bỏ chi tiết vụn vặt khổ tâm của nếp sống người con gái mà phong kiến còn lưu lại chặt chẽ với bốn bức tường “Khuê môn bất xuất”, tôi bạo phổi “xuất môn”.
Năm 1926, trong lúc cha bà ngâm nga khoe với những người bạn về bài thơ đầy khí khái của con gái ở Hội khuyến học Phước Long, thì ở nhà, hai người em của Bảo Lương đã giúp chị chuyển hành lý trốn nhà ra đi một cách an toàn.
Đến Sài Gòn, bà ở nhờ nhà ông Tôn Đức Thắng… Bà không ngờ bầu máu được dấn thân cho lý tưởng độc lập đất nước thấu đến Tổng bộ Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. Tổ chức chọn Bảo Lương sang Quảng Châu - Trung Quốc dự khóa học chính trị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Bà sung sướng đến rơi nước mắt khi nhìn thấy phía trước một thế giới đang rộng mở, một thế giới mà từ lâu tầm mắt bà bị che khuất bởi bốn bức tường “khuê môn bất xuất”…
Bởi Bảo Lương là một thiếu nữ có nhan sắc nên mọi việc không dễ dàng khi tổ chức đưa một thiếu nữ xuống tàu một cách bí mật cùng 5 thanh niên. Trương, người phụ trách nghĩ kế cải nam trang cho Bảo Lương, anh tay cầm kéo, tay xách đôi giày tiến đến bên cô gái: Muốn xuống tàu em phải cải nam trang, Lương ạ…
Một người Hoa ra đón họ đưa xuống tàu. Mỗi người được phát một bộ đồ thủy thủ. Những chàng trai trong đoàn thay đồ nhanh chóng, còn Bảo Lương cứ đứng tần ngần… Họ được dồn xuống một căn hầm nóng như lò lửa. Tiếng giày của mật thám gõ cồm cộp trên sàn, tiếng khám xét, chửi bới ầm ĩ trên boong tàu rõ mồn một xuống tai cô. Những người “không vé” trong chiếc hầm sắt ôm chặt, nằm rạp xuống, tránh những cây sắt nhọn do những người người lính tuần xôm xuống phía dưới. Máy bắt đầu nổ xình xịch. Con tàu dần rời bến hụ lên từng hồi, những người bí mật xuất dương mới thở phào nhẹ nhõm. Chợt có ai gọi đúng tên cô: “Bảo Lương, Bảo Lương!”. Cô giật mình, run bắn người vì sợ hãi, nhìn quanh, cô reo lên khi nhận ra người đàn ông: Anh Thông, anh cũng đi cùng chuyến này với em sao?
Vậy là trong đoàn người bí mật xuất dương có Thông, người hàng xóm. Từ đó, cô mới biết rõ tên của những người bạn qua lời giới thiệu của Thông: Nghĩa là anh cả, chú nhỏ là Kim Hương, ông xồn xồn là Trương Phong, chú này tên Thanh Huyền. Còn đây… “Chú Bảo Lương”. Họ nhanh chóng gần gũi, thân thiết với nhau, bởi họ cùng gặp nhau ở chí hướng: xuất dương đi học nước ngoài để trở về nước đánh Tây. Họ đọc thơ nhau, bình luận từng câu… Nhìn đám rong trôi lênh đênh trên biển, Bảo Lương viết:
… Bể rộng đàn rong gắng sức trôi
Sóng sao mặc sóng dễ đâu rời
Nông sâu quyết vẹn tình yêu nước
Theo nước đời rong chỉ thế thôi
Thông biết Bảo Lương là gái. Trong ứng xử với cô anh cố tỏ ra tự nhiên để giữ bí mật cho co bạn đồng hương. Người bạn ngồi bên cạnh “chú Lương”, nắm lấy bàn tay của những người bạn đồng hành, nghiêm giọng: Các bạn hãy thề với nhau đi, chúng ta như anh em trong bàn tay, không bao giờ phản bội nhau!. - Phải, không bao giờ phản bội nhau. Trương Phong xúc động đập tay xuống chiếc mũ Bê-rê của Bảo Lương. Một tay cô cầm viết, một tay bị đồng chí nắm chặt đưa lên tuyên thệ không cách gì đỡ được, chiếc mũ lệch sang một bên, “chú” Lương đành để lộ mái tóc đen nhánh…. Mặt Bảo Lương đỏ bừng… “Trời”. Mọi người đồng kêu lên kinh ngạc, há hốc mồm nhìn nhau rồi lại trố mắt nhìn “chú Lương”.
Đang ngồi gần thân mật, chợt họ nhích ra xa cô gái, giữ một khoảng cách nam nữ nhất định. Đến tối, cô chọn chiếc giường tầng trên, trong phòng còn đủ giường cho năm anh em, nhưng họ không vào ngủ, dặn Bảo Lương khóa chặt cửa. Bảo Lương nhìn qua khoang cửa. Thiên nhiên hùng vĩ quá, trăng mờ mờ soi, thi hứng dạt dào đến với tâm hồn đa cảm của cô:
Khoảng xa cách dập dờn ngọn sóng
Nhìn cố hương ước vọng thênh thang
Thuyền xuôi… ân nước vẹn đền
Trường Sơn bóng khuất sầu lên ngập hồn…
Cố gạt nước mắt vì nỗi buồn ly hương với bao tâm trạng ngổn ngang, Bảo Lương mở cửa xem các bạn mình ở đâu. Trong ánh trăng mờ, Lương vô cùng xúc động khi nhận ra Nghĩa đang rón rén hứng nước đổ vào một cái thau để cạnh góc tàu cho cô tắm. Nghĩa đứng tựa cửa, mặt buồn rười rượi: Chú chưa biết tôi thương chú còn hơn con gái tôi mà! Con gái tôi cũng chừng tuổi chú giờ này ngủ ngon giấc trong chăn êm nệm ấm. Còn chú…
Ở Quảng Châu, cô gái Việt Nam đã gặp gỡ và chứng kiến biết bao tấm gương trung liệt của phụ nữ Trung Quốc trong đấu tranh. Cũng chính nơi đây đã tôi luyện ý chí cách mạng cho cô gái đa cảm. Cô gái ấy đã học được nhiều bài học quý giá từ cách vận động quần chúng, tập diễn thuyết trước họng súng kẻ thù, những đêm trắng giằng xé để chọn lựa tình riêng và lý tưởng đại cuộc.
Trong quá trình học tập, tranh luận tìm con đường cách mạng, Bảo Lương gặp Lê - giao liên cho đồng chí Nguyễn Ái Quốc (lúc đó là Lý Thụy). Đó là một đôi trai tài gái sắc. Họ đem lòng yêu nhau. Nhưng nỗi niềm cố quốc trĩu nặng trong lòng Bảo Lương, trĩu nặng đến nỗi trong một đêm trăng huyền ảo đi bên người yêu dưới trời đầy hoa cúc, cô đã nén lại những đợt sóng mãnh liệt dâng đầy trong trái tim xuân nữ, cắn răng từ chối lời đính ước. Bởi trước mặt họ là con đường cách mạng đầy chông gai. Cô phải về nước với sứ mệnh “đặt những viên gạch đầu tiên” xây dựng tổ chức Hội Phụ nữ Giải phóng ở Nam Kỳ. Còn anh Lê phải ở lại Quảng Châu, ngày đêm đối mặt với hiểm nguy, cái chết.
Con người đa cảm, khao khát được yêu thương, được sống trong hạnh phúc của Bảo Lương luôn bị nén lại. Cô đã gác những thi hứng dào dạt, trữ tình để viết những bài thơ kêu gọi nữ quyền khi phụ trách mục nữ giới trên tờ báo Thanh Niên:
Chị em ơi!
Chúng ta cùng da vàng máu đỏ
Nông nổi này biết tỏ cùng ai
Từ khi non nước tơi bời
Tấm thân bồ liễu nhiều lời đắng cay
Chị em sao ngủ say quá vậy
Chuông tự do khua rậy bên tai
Ầm ầm vang khắp mọi nơi
Sao mình không dậy trông người thử xem…
Năm 1928, Bảo Lương về nước trên một chuyến tàu bí mật. Nhiệm vụ của tổ chức giao phó trĩu nặng trên đôi vai cô. Và đúng như dự cảm của Bảo Lương. Những hiểm nguy, bất trắc của cuộc đời hoạt động chính trị luôn chờ đón cô. Sau vụ án đường Barbier (Lý Trần Quán), cô bị mật thám theo dõi, bị bắt và bị kêu án 10 năm tù cầm cố tại Khám Lớn Sài Gòn. Địa ngục trần gian với những đọa đày nghiệt ngã, cô đã vượt qua những ngón đòn tra tấn dã man đầy khí phách, dũng cảm. Có một thời, bài thơ của Bảo Lương đã vượt qua khỏi song sắt nhà tù Khám Lớn Sài Gòn, được nhiều người truyền tụng:
Nước mất nhà tan gánh nợ chung
Có ta, ta quyết ghé vai cùng
Liễu bồ cũng đứng trong trời đất
Vàng đá ghi bền với núi sông
Chân yếu, tay mềm tuy sức gái
Gan bền, chí vững ấy đàn ông
Quốc thù chưa trả, ta chưa chết
Gươm ấy là con, súng ấy chồng
Trong thời gian ở tù, cô được một y tá làm việc trong khám chăm sóc, che chở. Từ sự mến mộ, khâm phục người con gái tài hoa dám hy sinh cho đại cuộc, trong lòng ông nảy sinh tình yêu. Ông đã từ hôn với một phụ nữ do cha mẹ đã dạm ngõ, ròng rã chờ cô suốt gần 9 năm… Phải chăng vì cái nghĩa lớn ấy hay vì một ẩn tình nào khác mà sau khi ra tù cô đã mai danh ẩn tích…?! Dẫu vậy, trái tim nồng nhiệt yêu nước của Bảo Lương vẫn rung lên những vần thơ đau đáu cùng đất nước.

Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt bị bắt vào tù năm 1928
Uẩn khúc nào khiến Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt không đi đến cùng con đường cách mạng, điều bí ẩn ấy là nỗi thôi thúc tôi mang hoài bão viết một quyển sách về bà. Tôi đã đi tìm lại những dấu chân bà, qua những người thân còn lại trong gia đình bà.
Năm 2000, tôi quyết làm một chuyến xuất dương sang Quảng Châu, tìm lại những dấu chân Bảo Lương. Đến ngôi nhà số 250 đường Văn Minh (xưa là ngôi nhà số 13 đường Văn Minh, chạm vào từng bậc cửa, từng bậc cầu thang, chiếc giường, bộ bàn ghế, vật dụng năm xưa bà đã học tập, làm báo Thanh Niên, lòng tôi tràn ngập bao xúc cảm. Lần theo dấu chân bà, tôi đi tìm lại những nơi bà đã qua như Tiểu công viên, Đại công viên, Trường Đại học Hoàng Phố, Hoàng Hoa Cương… Chợt ngậm ngùi bởi Quảng Châu giờ đã quá khác ngày xưa, nhiều nơi bà đi qua chẳng còn lại dấu vết. Nhưng trong lòng tôi, cuộc đời cách mạng dở dang, chí lớn chưa thành của bà vẫn là một dấu hỏi đau đáu trong lòng.

Trụ sở tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội ở số 13 phố Văn Minh (nay là số 250). Nơi đồng chí Nguyễn Ái Quốc mở các lớp Huấn luyện chính trị, làm báo Thanh Niên. Ngày nay, ngôi nhà này là một di tích lịch sử ở Quảng Châu – Trung Quốc.
Ảnh: Trầm Hương, tháng 4/2000.
_____________
(*) Vào thời ấy, Bình Đại thuộc tỉnh Định Tường (Mỹ Tho), nay là tỉnh Tiền Giang.