…
Ông quan niệm lại nhiều thứ. Nghệ thuật là ước lệ. Thực quá có là nghệ thuật không. Dễ mất thi vị lắm nếu cứ thẳng thừng gọi đúng tên mọi vật:
Để khỏi nhớ ơn, người ta bày ra chữ cám ơn Cám ơn, một lần, hai lần, thôi thế là rảnh nợ |
Bạo để được thực, nhưng bạo cũng lắm cái phiền. Thực ngay trong sự nhìn lại mình, vẽ ra chính mặt mình có khi lại bị chê là giả, vì người đời đã quen khuôn mặt giả mất rồi. Chế Lan Viên viết như bổ sung, như đính chính những điều đã viết. Nhiều cách nghĩ ta thấy lạ. Lạ với ông. Lạ cả với nền thơ. Nghĩ thế nào về đời, về thơ mà dẫn đến cách đánh giá chính mình như thế này:
Ôi! Con đường không ra đường của kẻ tìm thơ Cái thơ không ra thơ của kẻ tìm đường |
Ông như tách khỏi mình mà khảo sát chính mình, ở cái chỗ người ta tưởng ông đắc ý lại là chỗ ông đã xót thương:
Khi tôi cưỡi trên mây Thì máu người rên trên đất Mẹ hỏi tôi Con lên cao mà làm chi Mẹ ở dưới này cơ cực Về đi! |
Có người nghĩ Di cảo là thơ sám hối của Chế Lan Viên. Tôi không thấy thế. Di cảo chỉ là sự bổ sung. Chỉ nói nốt những điều trước kia tự ông dừng lại. Dừng lại không nói, chứ không phải không có nó trong lòng. Di cảo đi xa hơn nhưng vẫn trong hướng tìm của nhà thơ. Ông từng có bài thơ nói người tù Côn Đảo ban ngày trần mình ra chịu đòn thù đánh vào hồn vào xác, nhưng đêm về thì lấy trăng sao, hương gió mà nạp năng lượng cho trận chiến ngày mai. Bây giờ thấy ông còn có thêm đoạn ba này: là nói thế thôi, chứ đêm kẻ thù cũng chẳng để anh yên, cái cuộc đời ở đây phút giây nào chẳng phải căng ra mà chịu trận. Chế Lan Viên ở giai đoạn này, gắng nói gọn, nói hết những điều ông đã thấy, đã nghĩ, đã ngập ngừng. Quen tư duy bằng hình tượng, mọi điều nghĩ đã thành thơ phác thảo. Lúc này ông tước mọi uốn éo tài hoa mà thơ vốn có để nói bộp vào thực chất. Bài thơ ngắn đi, nhưng nghĩ ngợi nhiều, chìm sâu vào chiêm nghiệm.
Chiêm nghiệm cái đời người. Chiêm nghiệm thơ. Chiêm nghiệm xã hội, chính trị, vua quan, các thứ chủ nghĩa… |
Thi pháp Di cảo hiện đại hơn chính vì nó trình bày chất thơ để mộc từ trong lõi. Ông nói: các người đẹp, các vĩ nhân, các thi sĩ thiên tài thì tất cả đều có con nhặng xanh đón đợi. Ngay khi anh đang thơm tho với tuổi tên danh vọng, con nhặng xanh đã nhận ra cái mùi chung cục của anh rồi. Tốt cho anh là anh cũng phải nhìn ra nó sớm. Không phải chỉ tới những ngày trọng bệnh, mà thỉnh thoảng trong đời, ông lại ngẫm nghĩ về sự sống, về cái đời người:
Ừ anh là sông trôi, là hạt móc Là tiếng khóc thất thanh. Nhưng anh lại Là người. Việc gì phải tủi. |
Không tủi mà còn thích thú nữa. Nhìn lại, có lúc ông tự trách:
Được làm người khoái thế Vậy mà anh để hồn buồn và trán luôn cau… |
… Căng mình chống chọi với trời đông, ngạo nghễ như cây thông cũng chỉ là một cách mà cứ mềm mại buông mình xào xạc với gió thu như cây lau lại là một cách khác, không phải không hay. Ông lại nói: lên voi thì xuống chó, nhưng lên mới đến chó thì xuống đến đâu. Kiểu lập tứ ấy giống như một lối chơi tu từ, nhưng ngẫm kĩ nó là chuyện đời bây giờ đấy chứ. Chua chát! Ừ thì chua chát, đời mà, mấy khi ngọt. Người ta nói dối nhiều nên vu cho chú Cuội tội nói dối mà phê phán để trốn được tội mình đi.
Nói dối gì, Cuội thật biết bao nhiêu Thế hệ nào đến cũng gặp mày nguyên tại chỗ Chỉ kẻ nhìn lên trăng thì nói dối đủ điều |
Lúc là chú bé con, hét một tiếng trong Văn Miếu, nghe tiếng vang mà sợ, chạy. Lớn lên, nói trên Đài, hét trong sách lại thích thú chờ tiếng vang dội lại, có khi còn chạy đuổi theo. Nay cuối đời thèm yên tĩnh, nhìn xuống huyệt mình lại thấy có tiếng vang (!). Chế Lan Viên ưa nghĩ ngợi, thích phát hiện những ý tưởng thâm trầm ở những sự việc đã quá quen mòn, không ai còn để ý. Nhìn cái lá sen ngoài hồ lật theo chiều gió, liên hệ với tâm trạng mình, ông cho nó một ý nghĩa triết học:
Phía bên này lá sen là cuộc đời quá cũ Danh vọng, giấy tờ, bàn tủ Hoan hô và chửi rủa Thế mà lật lá sen hồ, bỗng chốc phía bên kia Bỗng chốc là mùi hương ở bên kia lá Là ánh trăng ở trong tiếng gió Là thì thầm ánh sao khuya Trong cỏ… Gọi anh đi |
Ông tự hỏi: ông đã viết câu thơ cổ vũ hai nghìn người đêm ấy ra trận, chỉ ba mươi người về:
Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm Ngồi quán bên đường nuôi đàn con nhỏ Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ! Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời Tôi ú ớ Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong Mà tôi xấu hổ |
Con người thông minh và giàu lãng mạn, thuở đầu đời phóng ra xa tới siêu thực, cuối đời rút vào cốt lõi hiện thực, gạt đi mọi trang trí để lần ra thực chất đời người.
Thực chất cái gọi là sự “bất tử”:
Có nhà thơ để lại bộ lông vằn tên tuổi Các thế hệ sau đến độn vào đấy rơm và danh vọng Thậm chí thêm cho con vật chết khô Cả một tiếng gầm. |
Thực chất cái chết, nó đã alô cho ông rồi, sỗ sàng, thẳng thừng. Thì nó sợ ai:
A lô! Nói gì nói nhanh lên (…) Và nhìn gì thì nhìn đi Không ai bịt mắt Mà cũng đừng nhắm mắt Nói lên vắn tắt Rồi đi |
Nhưng thực chất thơ ông nói tới đủ điều, ví với nhiều công việc. Mà vẫn như chưa vào thực chất thơ. Ông là nhà thơ nghiền ngẫm về chuyện làm thơ nhiều nhất. Những bài nói về nghề bằng văn xuôi, những chương nghĩ về thơ bằng thơ sâu sắc, tài tình. Giờ đây, thời gian kíp lắm rồi, ông vẫn lật đi lật lại, mê mải nói thêm. Ông so thi sĩ với hòn đá tảng, thơ nói ra (ở người) và thơ nén vào thành lửa (ở đá), cái nào hơn? Ông nhận ra cái không hoàn toàn mới là cái còn tiến hoá. Ông chấp nhận nghịch cảnh: nụ hoa hồng vừa nhú tươi non trên cành ông khô nhựa. Ông biết quy luật của nghề:
Ta là ta mà luôn luôn bối rối Tìm lại ta Đi tám cõi mười phương rồi mới tìm ra Nó ở trong nhà |
Hơn bảy trăm bài thơ Di cảo là một cách dùng quy luật nghề để vượt lên nghịch cảnh. Ông đã thắng. Chỉ riêng với Di cảo thôi đủ tạo dựng sự nghiệp một nhà thơ lớn.
Hà Nội, 5/5/2006
Bài liên quan: