Việc xây dựng và cải tổ đại học (ĐH) đang là vấn đề được nhiều người quan tâm. Cụm từ “đẳng cấp quốc tế” thường được sử dụng như mốt thời thượng. Thử hỏi ĐH có “đẳng cấp quốc tế” là gì và dựa trên những tiêu chuẩn nào? Cho dù lật tư liệu của những ĐH tầm cỡ trên thế giới như Havard, MIT, Yale, Stanford (Mỹ), Ecole Polytechnique (Bách Khoa), ĐH Paris (Pháp)… cũng chẳng tìm ra được một định nghĩa hay sự tự xưng là “đẳng cấp” như chúng ta vẫn quen gọi.
Điều mà chúng ta khát khao có được một ĐH, trường cao đẳng (CĐ) có trình độ tầm cỡ là một kỳ vọng có thể hiểu được. Nhưng sự tự xưng này sẽ trở nên lố bịch đối với những ai biết tự trọng. Chúng ta có thể đánh lừa chính mình lẫn học sinh, chứ không thể nào “khoe mẽ” với các vị thức giả nước ngoài.
Đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu của phát triển
Trước hết, nhiệm vụ chủ yếu của ĐH khác với CĐ là gì và có thể liên thông như thế nào? Có thể nói vắn tắt là CĐ là nơi đào tạo chuyên viên, kỹ thuật viên chuyên về ứng dụng cụ thể, không có chức năng nghiên cứu. Nói khác đi là trường dạy nghề cho lớp SV không muốn kéo dài việc học sau khi tốt nghiệp phổ thông.

Phòng học tại Thụy Sỹ.
Nhưng khi các em ra trường CĐ, muốn học thêm thì khả năng thi vào ĐH để tiếp tục vẫn không bị hạn chế. Tay nghề ở trường CĐ (2-3 năm) có thể mang cấp độ quốc tế khi nội dung giảng dạy, giáo trình và việc thực tập của các em đáp ứng được nhu cầu của xã hội, có trang thiết bị đầy đủ, hiện đại.
Việc động viên, khuyến khích học nghề có trình độ CĐ cần phải được ưu tiên trong chính sách phát triển giáo dục thay vì đầu tư dàn trải khắp nước, mỗi tỉnh đều có một ĐH một cách vô lý. Bởi sau 2-3 năm đào tạo, chúng ta sẽ có được một lực lượng chuyên viên kỹ thuật lành nghề đông đảo cho xã hội đang thiếu hụt trầm trọng. Trong khi giáo dục ở cấp ĐH đòi hỏi 4-5 năm mới “sinh” ra được một lứa mà chất lượng là những bài học lý thuyết trên sách vở.
Từ kinh nghiệm của Nhật Bản
Từ những ngày đầu của cuộc cải cách Minh Trị Duy Tân, Nhật Bản rất chú trọng đến việc xây dựng trường CĐ kỹ thuật. Từ năm 1893, chỉ trong vòng 5 năm, Nhật Bản đã lập trên 5.500 trường khắp nước, phủ kín các lĩnh vực. Tuỳ theo thế mạnh kinh tế của từng địa phương mà xây dựng trường CĐ kỹ thuật phù hợp, bắt nhịp với cuộc cách mạng kỹ thuật vào cuối thế kỷ 19.
Chính phủ Nhật xem đó là quốc sách ưu tiên nhằm phát triển nguồn nhân lực phong phú ở nông thôn sang lĩnh vực công nghiệp nhanh chóng (đây là một kinh nghiệm vô cùng quý báu, chúng tôi sẽ trở lại trong bài viết khác).

Du học sinh tại Nhật.
Vào những năm 1950, sau thế chiến thứ hai, một số trường CĐ được chọn lọc chuyển thành ĐH khi nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực ở cấp độ cao hơn ngày càng lớn (chứ không phải ngay từ đầu Nhật Bản đã phát triển giáo dục một cách dàn trải đâu đâu cũng có ĐH như chúng ta hiện nay).
Thế nào là đẳng cấp thế giới?
Sỡ dĩ các trường ĐH trên thế giới được ca ngợi, xem là có trình độ cao là vì những lí do sau đây:
1) Lực lượng giảng dạy và nghiên cứu là những người có uy tín trong học thuật, bản thân những người này có những công trình khoa học hàng đầu, đang được giới học thuật trong ngành chú ý hay trích dẫn, tham khảo để nối tiếp.
Bên cạnh những nhà nghiên cứu này là một bộ máy SV - thầy giáo cùng hợp tác và họ có những phòng nghiên cứu riêng trong ĐH cùng đứng tên chung đề tài trong khi hướng dẫn SV làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ hoặc tiến sĩ. Có nhiều vị giáo sư đạt giải thưởng về học thuật trong và ngoài nước, tạo ra được mũi nhọn cho ĐH mình như trường hợp MIT, Havard (Mỹ), Oxford (Anh) hay Kyoto (Nhật)…
2) SV ra trường đều được đánh giá cao với luận văn tốt nghiệp có giá trị khoa học thật sự và hầu hết tìm được việc làm ở những viện nghiên cứu chuyên ngành, đại học, nhà máy, cơ quan khoa học… có thể tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu chuyên môn hay thi thố tài năng của mình.
3) ĐH có đủ bộ máy quản lý nhân sự, khoa học lẫn tài chính nhằm tổ chức giảng dạy và nghiên cứu học thuật hoàn chỉnh, là nơi đào tạo nhân tài cho xã hội đáng tin cậy.
Quả không ngoa khi những SV tốt nghiệp ĐH Havard, MIT đều được trọng vọng, họ có một tương lai vô cùng hứa hẹn, trở thành nhà khoa học đầu ngành, cán bộ quản lý cao cấp hay lãnh đạo bộ máy nhà nước…. Các công ty hàng đầu luôn tranh giành SV chuẩn bị tốt nghiệp ngay khi họ chưa bước chân ra khỏi Ecole Polytechnique (ĐH Bách Khoa) hay Teidai (ĐH Đế Quốc) ở Nhật hoặc Princeton, Havard (Mỹ).
Yêu cầu của hội nhập
Chúng ta đã hội nhập vào cộng đồng thế giới, là thành viên của các tổ chức quốc tế. Vì vậy phải chăng sự tự xưng theo kiểu thổi phồng, “nói lấy được” sẽ trở thành trò cười cho thiên hạ.
Đã có nhiều kiều bào trí thức về nước tham gia giảng dạy; một số giáo sư là kiều bào đang giảng dạy tại các ĐH nổi tiếng ở các nước (Mỹ, Pháp, Nhật…) cũng đã đề xuất đề án xây dựng một ĐH “hiện đại”…
Tuy nhiên những nỗ lực đó còn chưa được quan tâm đánh giá để tích cực đưa vào việc cải tổ ĐH ở nước ta, cũng như việc huy động nguồn chất xám vẫn còn ở mức cá nhân, chưa thành một chính sách tích cực.
Chính phủ Pháp cũng đã có chương trình hỗ trợ, liên kết giữa ĐH trong nước với những ĐH của Pháp, tổ chức giảng dạy tại Việt nam và tu nghiệp tại Pháp (cũng như Australia hay một vài ĐH ở Mỹ). Bước đi này đều ở mức xuất phát, tập trung ở một số ngành đặc thù như du lịch, khách sạn, công nghệ thông tin… hi vọng sẽ phát huy tác dụng trong những năm tới.
Phải chăng chính phủ nên ban hành một chính sách thực thi cụ thể hơn nữa triển khai nội dung Nghị quyết 36 về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã ban hành cách đây hơn 3 năm và Bộ Giáo dục và đào tạo nên “khoán” cho ĐH việc tiếp thu giáo sư thỉnh giảng nước ngoài.
Với cách làm này, từng bước Tp.HCM sẽ có những chuyên ngành và khả năng nghiên cứu mang tầm quốc tế, sau đó có thể nhân rộng và phổ cập cho cả nước.
Tiềm lực của thành phố rất lớn trong phát triển kinh tế, công nghiệp và dịch vụ, đó cũng là tiền đề cho những quyết sách thông thoáng tích cực tài trợ và huy động tài chính của xí nghiệp (được khấu trừ thuế) cho nghiên cứu khoa học và đào tạo nhân tài ngay tại trong nước, giảm chi phí cử cán bộ ra nước ngoài tu nghiệp, hay để lấy học vị thạc sĩ, tiến sĩ như chủ trương hiện nay.
Không chỉ nguồn nhân lực có học vấn cao
Hiện nay con số công nhân có tay nghề chỉ đáp ứng được 1/3 yêu cầu, vì vậy việc tập trung đào tạo lớp công nhân có kỹ thuật vô cùng khẩn thiết. Vấn đề nhanh chóng hoàn thiện các cơ sở dạy nghề, CĐ kỹ thuật và trung học chuyên nghiệp… cần phải được đặt lên ưu tiên hàng đầu và nó không đòi hỏi thời gian đào tạo dài hơi như ĐH hay trên ĐH.
Vì vậy, việc giáo dục phổ thông và tổ chức dạy nghề là hai vấn đề phát triển song song, mà Tp.HCM phải là địa chỉ đào tạo đáng tin cậy, có quy mô tương xứng với yêu cầu và thực tế của cuộc sống.

Đồng thời phải tích cực mở rộng phân hiệu dạy nghề trong cùng hệ thống ra những địa phương đang triển khai xây dựng các khu công nghiệp để đáp ứng nhu cầu tại chỗ, với sự hỗ trợ của trung ương cũng như chính quyền địa phương, tránh việc dạy nghề tùy tiện, được chăng hay chớ, chỉ mang mục đích kinh doanh trục lợi.
Để khuyến khích việc học và dạy nghề, thiết nghĩ chính quyền địa phương cần có chính sách cấp “học bổng” hay “cho vay” để học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở có thể chuyển sang học nghề hay trung cấp kỹ thuật.
Tốt hơn nữa, khi chủ trương này biến thành một quyết sách của chính phủ cho cả nước thì chỉ 3-5 năm, nước ta sẽ nhanh chóng xóa được nạn thiếu hụt công nhân kỹ thuật đồng thời có thể xuất khẩu lao động có tay nghề thay vì xuất khẩu lao động giản đơn như hiện nay.
Chưa bao giờ nước ta có đầy đủ điều kiện để phát triển như hiện nay, sau khi gia nhập WTO và bình thường hóa toàn diện quan hệ các nước trong đó kim ngạch mậu dịch với Hoa Kỳ tăng nhanh chóng, đạt trên 8 tỷ đô la trong năm 2006.
Từ khi tổ chức thành công hội nghị APEC vào tháng 11/2006, đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, dự kiến xấp xỉ 12 tỷ đô la trong năm 2007, vì vậy việc đào tạo nguồn nhân lực bậc cao có trình độ quốc tế và trung học chuyên nghiệp, kỹ thuật giỏi là hai đòn bẩy để thêm sức cạnh tranh thay vì hát mãi bài ca “lao động dồi dào và rẻ” khi kêu gọi đầu tư nước ngoài.
(*) | Thạc sĩ Sử học, Cao học Hóa Ứng Dụng (bài viết tại Tokyo) |