- GS–TS Mai Quốc Liên trả lời: Trước tiên, xin ghi lại bài Hồi hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương (659–744), cả bài I và bài II cùng đầu đề để tiện việc trao đổi:
回鄉偶書二首 |
Bài 1 其一 Thiếu tiểu ly gia, lão đại hồi 少小離家老大回 Hương âm vô cải, mấn mao tồi 鄉音無改鬢毛衰 Nhi đồng tương kiến, bất tương thức 兒童相見不相識 Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai? 笑問客從何處來 |
Bài 2. 其二 Ly biệt gia hương tuế nguyệt đa 離別家鄉歲月多 Cận lai nhân sự bán tiêu ma 近來人事半消磨 Duy hữu môn tiền Kính hồ thủy 惟有門前鏡湖水 Xuân phong bất cải cựu thời ba 春風不改舊時波 |
Dịch nghĩa: |
1. Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng Trẻ con gặp mặt, không quen biết, Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến? |
2. Ly biệt quê nhà bao tháng năm Gần đây người, việc đã tiêu mòn mất một nửa, Chỉ có nước Kính hồ trước cửa nhà Gió xuân thổi không làm thay đổi lớp sóng ngày xưa. |
Sau đây, xin cung cấp một vài tư liệu để bổ sung vào cách hiểu của TS Phạm Tuấn Vũ.
Trước hết, khi phân tích bài thơ này, cần đọc cả hai bài, cùng một cảm hứng, một tư tưởng chủ đề, như chúng tôi in trên đầu bài.
Đường thi đại từ điển – Giang Tô Cổ tịch xuất bản xã, 1990, tr.712 mục Hồi hương ngẫu thư, viết: “Hai bài thơ này diệu ở chỗ văn chương khinh khoái, tả người xa quê lâu ngày về rất là chân thành, tha thiết, không cần vẽ vời, tình thú dào dạt. Nhân sự tiêu mòn, Kính hồ như cũ, cảm khái vô hạn, gởi cả vào thơ, tình sâu vị đượm, thực là tác phẩm thượng thừa trong thơ thất tuyệt đời Đường. Toàn bài 1 và 2 câu cuối bài 2 đều được xưa nay truyền tụng là “giai cú”.
Đường đại danh gia thi tuyển – Hải Nam xuất bản xã, 1994, tr.67, viết “lâu năm làm khách xa quê, cảm khái tuổi già về lại quê nhà, thấm thía cái bi hoan của nhân sinh, chân thành, tha thiết động lòng người”.
Tân dịch Đường thi tam bách thủ, Tam Dân thư điếm. Đài Bắc 2005, tr.468, viết: “Tùy hứng viết ra ý tứ thơ do việc tác giả xa quê lâu năm, già về quê, kẻ sinh sau không nhận ra mình, lại gọi mình là khách đến làng, cho nên trong thơ cảm khái tự thương tuổi già…, Chỗ hay của bài thơ là bình dị, sáng rõ, dễ cảm, trong lòng ẩn chứa nỗi đau, nghìn năm sau còn làm động lòng người”
Trung Hoa thiên cổ danh thiên tân biên, Thượng Hải, Phúc Đán đại học xuất bản xã, 2000, tr.37, viết:
“Bài thơ ngữ ngôn phác thực, tự thuật sinh động, phong phú ý vị nhân tình… Nói về kỷ xảo, tuy không luyện chữ khắc ý, cũng có sự sắp xếp: thiếu tiểu và lão đại, ly và hồi, hương âm không đổi và tóc mai đã rụng là 3 tổ hợp đối tỉ (…) khiến người ta có cái cảm sâu sắc về biển dâu (thương tang). Hai câu sau của bài lấy từ trong sinh hoạt, là một bức tranh tế vi, từ trong sự vật bình thường hóa thành tuyệt xướng”
Cổ thi hải (tập thượng). Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 1992, tr. 467–468, viết: Bài thơ “thực bao hàm cả ngàn câu vạn lời về cái cảm xúc biển dâu… Trẻ con cười hỏi” đã làm dậy lên trong lòng nhà thơ bao nhiêu ý vị về quê…” Thủ pháp ngụ bi vu tiếu, ngụ thực vu hư (gửi cái bi trong cái cười, gửi cái thực trong cái hư) sức mạnh nghệ thuật thâm trầm, trăm ngàn năm nay không thời nào không làm độc giả động lòng. Hai bài này ý cảnh như đạm mà nồng”.
Đấy là mới tường thuật lướt qua một vài tư liệu của Trung Hoa về bài thơ. Vậy xin có mấy ý gút lại:
1/ Ý vị của bài thơ (cả hai bài nhất quán) là ý vị cảm khái về cái biển dâu của cuộc đời, cái bi hoan của nhân sinh…
2/ Bài thơ giản dị, tùy hứng viết ra tự nhiên (nên gọi là ngẫu thư), thực ra chứa đựng trong nó sự trải nghiệm của cả một đời (86 tuổi).
3/ Thơ này mà đưa cho học sinh lớp 7 học thì khó cho các cháu, khó cho thầy.
4/ Nhân tiện, nói một chút về “hương âm vô cải” (giọng quê không đổi) “Ở đây âm sắc giọng nói của làng được người đi xa chủ tâm giữ gìn hóa ra không tạo được ở lũ trẻ chút ấn tượng gì” (Phạm Tuấn Vũ, bđd). Có lẽ không phải thế. Trong ngôn ngữ, cái ít biến đổi nhất là ngữ âm. Mao Trạch Đông suốt đời nói thổ âm Hồ Nam, còn Napoléon suốt đời nói giọng đảo Corse. Trời sinh ra thế, chứ không phải chủ tâm. Nếu có biến đổi, làm sao chủ tâm được.
Đưa ra đối lập ấy, giữa cái bất biến và cái biến, là để tô đậm thêm cái cảm xúc “thế gian biến cải…”, “nhân sinh dị lão, thiên nan lão” đó thôi. Vậy thì, đó là cái triết lý, cái “tứ” thường gặp trong thơ, nhất là thơ Đường, một nền thơ thâm trầm bậc nhất của nhân loại. Nhưng để thể hiện triết lý ấy trong thơ, cần có cả một nghệ thuật dường như không cần đến nghệ thuật nữa, cần có một dồn nén cảm xúc vào bên trong những quan sát chọn lọc thiên tài.