Huyền thoại Vũng Rô

Vũng Rô là một vịnh nhỏ nhưng xinh đẹp thuộc xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên, nằm ngay sát rìa dãy núi Đèo Cả. Vịnh được xem như là một tuyệt tác của thiên nhiên.

Với vị thế đặc biệt của mình, trong kháng chiến, Vũng Rô được chọn là một trong những bến tiếp nhận những con tàu không số chi viện trực tiếp cho chiến trường miền Nam bằng đường biển. Vũng Rô đi vào lịch sử như một huyền thoại sau khi bị lộ chuyến tàu thứ tư mà kẻ địch hốt hoảng gọi là “Sự kiện Vũng Rô” tháng 2/1965.

Năm 1963, Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên Trần Suyền nhận được lệnh của Trung ương và Khu ủy V tìm địa điểm mở bến ở tỉnh Phú Yên để đón các con tàu không số từ miền Bắc chi viện cho chiến trường Khu V.

Hàng loạt các vị trí dọc 189 km bờ biển của tỉnh Phú Yên đều được đưa ra xem xét và cân nhắc. Cuối cùng, các vị lãnh đạo tỉnh Phú Yên và Liên Tỉnh ủy 3 (Phú Yên, Khánh Hòa, Đắc Lắc) quyết định chọn bến Vũng Rô nhằm tạo yếu tố bất ngờ và cũng thuận tiện trong việc tổ chức hành lang vận chuyển về phía sau để chi viện vũ khí cho chiến trường ba tỉnh.

Theo yêu cầu của Trung ương, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên đã chọn năm cán bộ thông thạo nghề biển vượt Trường Sơn ra Bắc để dẫn tàu vào.

Đầu tháng 11/1964, Ban chỉ huy bến nhận điện cấp trên chuẩn bị đón tàu vào. Trong đêm tối mịt mùng của mùa đông năm 1964, hàng trăm Thanh niên xung phong Hòa Xuân, Hòa Hiệp ngâm mình dưới nước biển lạnh buốt để chôn trụ cầu.

Ngày 16/11/1964, tàu 41 anh hùng do đồng chí Hồ Đắc Thạnh – một người con ưu tú của quê hương Tuy Hòa – chỉ huy đã xuất phát từ cảng Hải Phòng chở hơn 60 tấn vũ khí, thuốc chữa bệnh theo con đường Hồ Chí Minh trên biển chi viện cho chiến trường Nam Trung Bộ. Chiếc tàu không số đầu tiên cập bến Vũng Rô an toàn vào lúc 1 giờ sáng ngày 28/11/1964. Công việc bốc hàng được tiến hành hết sức khẩn trương. Sáng sớm hôm sau, những thùng hàng đầu tiên từ bãi Chính Vũng Rô, Hòa Xuân đã được đưa đến cầu Cây Khế vượt Bãi Môn len lách qua những dốc đá cheo leo tập kết ở Hang Vàng Bãi Bàng.

Hàng của chuyến thứ nhất đang còn rải dọc đường từ bến về kho, từ kho Bãi Bàng vượt qua hành lang Hòa Xuân vận chuyển về tuyến sau, thì Ban chỉ huy bến cùng quân dân Hòa Xuân, Hòa Hiệp đón chuyến thứ hai cập bến Vũng Rô vào đêm 25/12/1964.

Cảng Vũng Rô.

Cuối năm 1964, sau khi đã đưa hai chuyến tàu vũ khí vào bến Vũng Rô thắng lợi, đồng chí Hồ Đắc Thạnh – Thuyền trưởng tàu 41 được Tư lệnh quân chủng Hải quân gọi lên giao nhiệm vụ: “Đảng ủy và Tư lệnh quân chủng quyết định tàu các đồng chí phải khắc phục mọi khó khăn trở ngại, đúng giao thừa có mặt tại Vũng Rô”.

Mọi công tác chuẩn bị cho chuyến đi đã hoàn thành sớm hơn dự định một ngày. Sau khi nghe báo cáo, đồng chí Hồ Đắc Thạnh trực tiếp kiểm tra công tác chuẩn bị cụ thể của các ngành. Khi đến khoang hàng hai, ngoài số lượng hàng vũ khí, trang bị kỹ thuật chở cho bến, có một hòm gỗ đậy kín, bên ngoài có hàng chữ đậm nét “Quà đón xuân vui Tết” bên cạnh một cành đào sum suê hoa lá.

Đồng chí thuyền trưởng hỏi đồng chí Hồng Lỳ: “Cái hòm gỗ này có danh mục ghi trong phiếu chuyển hàng cho bến không?”. Đồng chí Nhạn, máy trưởng – người được toàn thuyền cử ra đảm nhiệm công việc chuẩn bị quà tết – vừa cười vừa nói: “Báo cáo thuyền trưởng, cái thùng này do tàu ta xuất phiếu thôi ạ”. Tất cả cùng cười. Đồng chí mở nắp thùng và đọc to bản liệt kê bao gồm: “30 chiếc bánh chưng, bánh tét, 10 gói kẹo, bánh quy, 5 gói chè, 50 gói thuốc lá, 40 chai bia và một cành đào. Tất cả đều không có nhãn hiệu, như con tàu không số của ta”.

Chiếc thùng gỗ đựng quà tết chiếm một diện tích rất nhỏ trong khoang hàng của tàu nhưng nó chứa đựng bao nhiêu tình cảm của toàn thể cán bộ, chiến sĩ tàu 41 mà phần lớn anh em quê Phú Yên. Bằng số tiền dành dụm, họ đã gửi gắm tình cảm của mình qua từng món quà tết quê hương trong chuyến đi đầy ý nghĩa này.
Tàu 41 khởi hành vào mùa thời tiết không thuận lợi. Sau ba ngày vượt sóng to gió lớn, lách tránh các tuyến tàu tuần tiễu của địch, chiều 30 tháng chạp Âm lịch, tàu chuyển hướng vào bờ. Đây là tuyến đi căng thẳng nhất suốt lộ trình.

Bữa cơm “tất niên” được thuyền phó sắp xếp cho tàu ăn trước 12 giờ trưa để kịp làm công tác chuẩn bị chiến đấu. Toàn tàu đang ăn cơm, bỗng từ đài quan sát, chiến sĩ trực canh báo cáo: “Mạn phải 30 độ, cự ly ba hải lý, phát hiện hai tàu địch di chuyển về phía Nam”. Lệnh chuẩn bị chiến đấu được phát ra, tất cả về vị trí của mình. Lớp ngụy trang trên những khẩu súng được kiểm tra sửa lại để vừa che mắt hai tàu địch vừa có thể nhanh chóng tung ra khi có tình huống chiến đấu.

Qua chiếc ống nhòm có bộ số cao, thuyền trưởng nhìn rõ hai tàu tuần tiễu địch. Phải tránh! Chỉ huy cho tàu thay đổi hướng đi song song để tránh tàu địch, tạo khoảng cách xa để thời gian tiếp xúc rất ít. Nhìn đồng hồ đã 16 giờ rồi, chỉ còn tám tiếng đồng hồ nữa thôi tàu phải có ở Vũng Rô.

23 giờ 50 phút, tàu 41 thả trôi giữa Vũng Rô. Chỉ huy tàu cho thả xuồng và cử người vào bến tìm bộ phận đón. Đang loay hoay thả xuồng thì cũng vừa lúc thuyền của các đồng chí ở bến cặp mạn tàu. Niềm vui ngập tràn vô tận. Đồng chí Hồ Đắc Thạnh ôm hôn đồng chí Sáu Suyền mà hai hàng nước mắt chảy ròng và nghẹn ngào không nói nên lời.

Giao thừa! Phút giao thừa xuân năm 1965 đã tới. Phú Yên ơi! Chúng con đã về đây! Về giữa mùa xuân tràn đầy sức sống.

Mọi công tác được tiến hành khẩn trương. Sau khi đã bố trí các tổ bám chốt các đồn bót địch và Mũi Điện để kịp thời đối phó, cuộc liên hoan mừng Tết Ất Tỵ, mừng ngày tàu và bến gặp nhau được tiến hành trên nắp khoang hầm hàng hai dưới vòm lá ngụy trang kín đáo. Thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng, bánh tét, kẹo, bia và thuốc lá được bày ra. Cành đào Nhật Tân – Hà Nội bên nhành mai vàng của núi Đá Bia khoe sắc càng thêm hương vị của mùa xuân.

Trong niềm vui chứa chan tình cảm, thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh thay mặt cán bộ, chiến sĩ chúc tết các đồng chí cán bộ lãnh đạo chỉ huy, chiến sĩ và dân công của bến. Tất cả cùng nâng cốc chúc mừng thắng lợi, chúc quân dân Phú Yên, quân dân miền Nam năm mới giành được những thắng lợi to lớn hơn như thư chúc tết của Bác Hồ. Tiếng pháo tay thay pháo tết nổ vang.

Tối mồng một, tàu cùng bến bốc dỡ hàng. Chiếc cầu tàu làm tạm bằng cây rừng không đủ sức cho số đông người đi lại, nên hầu hết anh chị em dân công phải dầm mình dưới nước mới kịp chuyển hàng. Công việc tấp nập, khẩn trương. Phía Đèo Cả, thỉnh thoảng một vài ánh đèn pha le lói của những chiếc xe leo dốc cùng với tiếng súng nổ lạc lõng từ các bót đồn địch bắn cầm canh trấn an cho giấc ngủ đầu năm của những kẻ xâm lược. Mặc – không khí lao động, chiến đấu ở đây vẫn tấp nập, khẩn trương. Hàng bốc dưới tàu lên là vũ khí, thuốc men. Hàng trên bờ xuống là cát. Cát của Vũng Rô được đưa xuống dằn tàu để giữ được ổn định khi tàu ra khơi gặp sóng to gió lớn.

Trong vòng hơn hai tháng, ba chuyến tàu đã đưa vào Vũng Rô (Hòa Xuân) ngót 200 tấn hàng. Hàng từ bến đưa về kho tạm phải nhanh chóng vượt qua một hệ thống đồn bót địch để chuyển lên phía tây quốc lộ 1. Công tác vận chuyển đang tiến triển thuận lợi thì xảy ra sự kiện tàu 143 bị lộ ở Vũng Rô.

Đầu tháng 2/1965, tàu 143 được lệnh chở 63 tấn vũ khí rời cảng Bính Động, có nhiệm vụ vào bến Lộ Diêu (Bình Định). Tàu do đồng chí Lê Văn Thêm làm thuyền trưởng. Đi được hơn một ngày, tàu rẽ vào đảo Hải Nam. Tin tức cho biết những ngày này, tàu chiến của địch hoạt động nhiều nên tàu dừng lại ở Hải Nam mười ngày. Ngày 10/2, tàu tiếp tục lên đường. Lần này, tình hình mặt biển có nhiều khác lạ. Ban ngày, cứ 4, 5 tiếng đồng hồ lại có một máy bay của địch bay dọc theo thân tàu, có lúc sà xuống rất thấp. Đêm, có tàu thủy đi kèm, chiếc phía trước, chiếc đi sau. Tàu 143 đi trên vùng biển quốc tế, được ngụy trang khéo léo, giống như một tàu khai thác hải sản nên bình thản tiếp tục hành trình.

Tàu đi được nửa đường thì nhận được điện của Sở chỉ huy: “Không vào bến theo dự kiến, mà cho tàu vào Vũng Rô”. Như vậy địa điểm tàu vào đã thay đổi.
Đêm 15/2, tàu cập bến Vũng Rô, lúc đó 23 giờ. Bến đã được Bộ Tổng tham mưu báo trước nên khẩn trương tập trung lực lượng bốc dỡ hàng.

3 giờ ngày 16/2, hàng đã được bốc dỡ hết, tàu 143 quay ra thì tời neo hỏng, 5 giờ 30 phút tời neo chữa xong, nhưng trời đã sáng rõ nên tàu 143 đành ở lại bến. Thủy thủ và du kích cho ngụy trang tàu. Địa hình Vũng Rô ba bề vách núi dựng đứng. Trên những vách núi đó, nhiều cây mọc xòe ra sát mép nước. Nước ở đây khá sâu nên tàu 143 dễ dàng ép sát vào chân núi. Nhiều cành cây được chặt xuống phủ phía trên. Tàu 143 chẳng khác một khối đá nhỏ nhô ra biển. Để lại 2 người trên tàu, số thủy thủ còn lại lên bờ nghỉ. Trên đèo Cả là đồn địch. Nơi đây là đầu mối giao thông quan trọng: quốc lộ 1. Phía biển là đồn Mũi Điện.

Trung tuần tháng 2/1965, lúc tàu 143 có mặt ở Vũng Rô, cũng là thời điểm Lực lượng vũ trang Quân khu 5 tấn công quyết liệt vào căn cứ Dương Liễu và đánh vận động trên đèo Nhông.

10 giờ sáng ngày 16/2/1965, chiếc máy bay tải thương UH 1B bay dọc quốc lộ 1 từ Quy Nhơn về Nha Trang. Qua vùng đèo Cả, Vũng Rô, viên phi công tình cờ nhìn thấy “một mỏm đá lạ nhô ra trên vách núi phía tây Vũng Rô”, mà những ngày trước y không hề thấy. Viên phi công liền báo cáo về Bộ chỉ huy Quân đoàn 2 ngụy đóng ở Nha Trang.

14 giờ chiều 16/2/1965, hai chiếc trực thăng vũ trang của địch vòng lượn bắn phá bãi Môn. Một chiếc máy bay trinh sát bay rất thấp từ Hòn Nưa vào Bãi Chùa phóng một quả rốc két trúng tàu, cây lá ngụy trang bay tung, lộ rõ một con tàu. Hai chiếc máy bay khu trục lao đến. Đồng chí Hồ Thanh Bình, Chỉ huy trưởng K.60, lệnh cho hai khẩu 12 li 7 ở bãi lau nhả đạn. Toàn khu vực báo động, thủy thủ trên tàu, bộ binh dưới bến phối hợp giáng trả địch. Đồng chí thuyền trưởng Lê Văn Thêm bị thương.

Sau khi dùng hỏa lực mạnh đánh đuổi máy bay địch, ban chỉ huy bến thống nhất với đoàn thủy thủ phá tàu.

Tối ngày 16/2, địch thả pháo sáng suốt đêm.

Sáng 17/2, tên tướng ngụy Vĩnh Lộc trực tiếp chỉ huy Trung đoàn 46 ngụy mở cuộc càn quét lớn ở Vũng Rô. Quân ta chặn đánh quyết liệt, diệt hàng trăm tên địch nhưng do địch quá đông nên các chiến sĩ ta phải dùng thuốc nổ phá hủy phần lớn số vũ khí chuyến tàu thứ tư chưa kịp chuyển lên căn cứ. Buổi chiều ngày 27/2, địch ném bom, tăng viện đổ bộ lên Bãi Bàng, Bãi Chính. Ta đánh địch quyết liệt, ngăn chúng lùng sục cướp phá hàng.

Cuộc chiến đấu tại Bãi Xép, Bùng Binh, Hang Vàng rất ác liệt. Bộ đội và du kích dựa vào thế núi hiểm trở chặn đánh quyết liệt không cho địch tiến vào Hang Vàng là nơi đặt kho chính. Địch hò hét quyết chiếm hang Vàng. Ta dùng chất nổ hủy kho, tiêu diệt nhiều tên. Địch phải rút chạy và chấm dứt cuộc càn. Số vũ khí còn lại, dân công Hòa Xuân, Hòa Hiệp tiếp tục vận chuyển về căn cứ phía tây.

Vài ngày sau, địch dùng máy bay B57 rải bom vào núi dọc các hành lang suốt 10 ngày đêm. Cùng thời gian này, một trung đoàn ngụy có máy bay, đại bác, tàu chiến phối hợp càn quét xã Hòa Hiệp, quân dân hai xã và bộ đội ta đã chống trả kiên cường.

“Sự kiện Vũng Rô” đã gây cho địch sự kinh hoàng tột độ. Trong bài báo nói về “Vụ Vũng Rô” tháng 2/1965, đại tá hải quân Mỹ R.Sohresdley thú nhận rằng: “Vụ Vũng Rô như vậy đã khẳng định một điều rất quan trọng mà chúng ta đã ngờ vực suốt cả một thời gian dài, nhưng từ trước tới nay vẫn chưa có nhiều bằng chứng. Số lượng vũ khí trên chiếc tàu bị đánh và trên bờ Vũng Rô bị phát hiện đã chỉ ra rằng: Vũ khí có số lượng nhiều hơn đã được chở bằng tàu thủy vào trước đó”.

***

Vũng Rô hôm nay là một vùng đất có tốc độ phát triển kinh tế khá nhanh ở Phú Yên. Khu vực này đã được tỉnh Phú Yên đưa vào quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm Đông Tác – Vũng Rô. Ngoài quốc lộ 1A, Vũng Rô đã được nối thông với khu công nghiệp Hòa Hiệp, sân bay Đông Tác và thành phố Tuy Hòa bằng tuyến đường Phước Tân – Bãi Ngà mới mở với tổng vốn đầu tư trên 100 tỉ đồng. Không chỉ tạo thành trục giao thông động lực cho vùng kinh tế trọng điểm này, đường Phước Tân – Bãi Ngà còn mở ra những tiềm năng du lịch với những bãi tắm rất đẹp như Bãi Tiên, Bãi Chùa, núi Đá Bia, Mũi Điện và đặc biệt là di tích lịch sử tàu không số.

Đòn bẩy phát triển của Vũng Rô là cảng biển nước sâu với một cầu cảng trọng tải 3.000 tấn cùng nhiều hạng mục hạ tầng kỹ thuật như kho hàng tổng hợp, hệ thống cấp nước ngọt, bãi Tiền Phương, kè Ha Rô… Cầu cảng Vũng Rô chính thức đi vào hoạt động từ cuối năm 2004 và đã trở thành một nơi nhộn nhịp tàu bè ra vào vận chuyển hàng.

Tô Phương