HV100 - Bác Hồ trong tâm khảm một thế hệ

Năm 1965

Tết ấy Ất Tỵ, đã cách nay nửa thế kỷ, tôi đang là học trò lớp 6, niên khóa 1964-1965, của trường cấp 2 Lý Thường Kiệt. Hà Nội xuân đó rét đậm, chỉ chừng 10-11 độ và sương muối, nên tuần nghỉ tết cũng là nghỉ học kỳ của chúng tôi được kéo ra, tới tận ngày 8 tháng 2, là đâu khoảng 9 hay 10 tháng giêng âm lịch, nắng ấm trở lại mới tựu trường, vào học kỳ 2. Nhưng ngày hôm trước đó, 7 tháng 2 năm 1965, không quân Mỹ ồ ạt ném bom Quảng Bình, tổng lực bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại, thành thử sau lễ tựu trường chóng vánh, chúng tôi không vào học mà bắt tay vào tu sửa các tăng-xê phòng không đã có từ ngày 5 tháng 8 năm 1964.

Hôm sau, tôi nhớ, là chủ nhật, ngày lao động xã hội chủ nghĩa, các thầy và học sinh khối lớp 7 đến trường tiếp tục công việc đào hào đắp ụ. Còn chúng tôi, học trò các lớp 5 và 6, thì cũng đến trường tập trung, nhưng là để đi chơi, lên xe ca, tới Phủ Chủ tịch.

Hồi đó, những năm trước chiến tranh, thiếu nhi Hà Nội vẫn thường được Thành đoàn tổ chức cho vào thăm nhà Bác, song đều là vào dịp tháng 5, mùa hạ, bế giảng năm học. Còn như chúng tôi lần ấy, đột ngột, đầu xuân giữa niên khóa, thì chưa từng bao giờ. Và cũng bởi đột ngột, nhà trường không bình xét phân loại, nên tất cả lớp chúng tôi, không cứ là phải trò ngoan trò giỏi, đều được hưởng niềm hạnh phúc bất ngờ. Cả sự ăn bận cũng cứ hằng ngày đến lớp thế nào thì cứ y thế chứ không phải sửa soạn bày vẽ cảnh vẻ gì.

Nhờ vậy mà bản thân tôi và nhiều đứa bạn khác, dẫu chỉ là học trò ăn mặc loàng xoàng giống như tôi, đã lần đầu tiên trong đời được gặp Bác Hồ.

Trời xuân nắng ấm. Hoa hồng tươi thắm bừng nở dọc hai bên các lối đi. Sướng vui ngây ngất, cả trăm đứa trẻ mười một, mười hai tuổi chúng tôi tỏa ra trong khắp vườn cây rộng lớn. Không gian tĩnh mịch của Phủ Chủ tịch khuấy động hẳn lên bởi tiếng ồn của đám đông học trò được thả sức chạy nhảy, cười nói, nô đùa và cả ca hát. Cửa dinh trên thềm cao cũng mở ra cho bọn trẻ vào chơi bên trong tiền sảnh lát cẩm thạch rộng thênh thang.

Tới khoảng giữa buổi sáng thì chúng tôi được tập hợp lại, xếp hàng đi tới nhà sàn của Bác. Ngày đó mọi người chưa được phép lên cầu thang nhà sàn vào thăm thư phòng của Bác như thời nay. Chúng tôi ngồi trên những hàng ghế đá dành cho trẻ nhỏ bao quanh sân, háo hức ngóng được thấy Bác đi xuống. Chừng hơn mười phút thì Bác đến. Nhưng không phải là Bác từ cao trên nhà sàn đi xuống. Bác đi tới từ vườn cây, lối đi rẽ ngang qua khóm tre đằng ngà và cây đa cổ thụ, men theo bờ ao cá trở về nhà sàn. Đi bên Bác là ông Thủ tướng Liên Xô. Chỉ Bác và ông ấy, không thấy có bảo vệ và phiên dịch đi theo. Chỉ có Bác và vị khách nước ngoài giữa đám đông trẻ nhỏ reo mừng ùa tới xúm xít.

Tôi nhớ, khi tiếng ồn ào của lũ trẻ chúng tôi đã lắng, Bác nói, xin lỗi các cháu, vì cuộc họp phải thêm thời gian, nên về trễ làm các cháu phải đợi. Bác giới thiệu với chúng tôi ông Thủ tướng. Người nói là mặc dù thì giờ rất gấp, đồng chí Côxưghin vẫn muốn cùng Bác về qua Phủ Chủ tịch để gặp gỡ các cháu thiếu nhi Việt Nam.

Người nhường lời cho vị khách. Ông Thủ tướng nói chậm rãi và đầy vẻ xúc cảm nhưng không dài dòng. Tôi nhớ rằng lúc ấy không phải người phiên dịch, mà là Bác Hồ đã trực tiếp dịch sang tiếng Việt cho đám trẻ học trò chúng tôi nghe những lời phát biểu chân tình, thân thiết của vị khách Xô viết.

Những năm trước đó, tiếp các đoàn khách thiếu nhi Bác dành ra nhiều tiếng đồng hồ, có khi cả buổi, nhưng lần ấy thì chúng tôi chỉ được bên Bác chừng nửa giờ. Bác nói ngắn, dặn dò khuyên bảo chung chúng tôi, Bác chia quà cho từng đứa, chụp ảnh chung, rồi thì do công việc khẩn cấp đợi chờ, Bác nói lời tạm biệt. Dẫu vậy, dù gấp gáp như thế, Bác vẫn kịp lưu ý tới cá biệt một người trong số đông chúng tôi đang xúm xít quanh Người. Ấy là Nguyễn Kim Thái, người bạn học thân nhất của tôi, vẫn hằng ngày ngồi cùng một bàn với tôi ở lớp 6E.

Thái mồ côi cha, mẹ làm nghề đồng nát gom nhặt thủy tinh sắt vụn, nhà rất nghèo, thiếu ăn thiếu mặc. Vì thế mà Thái rất nhỏ con, thấp bé gầy còm đen đúa, ăn mặc thì tuyềnh toàng phong phanh, chân đi đôi dép cao su đã mòn vẹt. Nhưng có lẽ chính bởi “nổi bật” lên như thế nên sáng hôm đó mặc dù đứng lui ra ngoài rìa và bị chìm đi trong đám đông chúng bạn, Thái vẫn đã được Bác nhận thấy. Chào tạm biệt mọi người, mà Bác dừng bước, ân cần hỏi chuyện với riêng Thái thêm một lúc lâu nữa.

Sau buổi sáng ngày 9 tháng 2 năm 1965 không bao giờ quên ấy, học trò Lý Thường Kiệt chúng tôi từ giã ngôi trường, từ giã Hà Nội và từ giã nhau, mỗi đứa mỗi ngả, sơ tán về các miền quê. Nhiều năm sau, khi cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất kết thúc, mới có dịp gặp lại.

Ấy là vào mùa thu 1969. Hầu hết bọn bạn học cùng lớp 6E với tôi hồi năm 65, nhà ở dọc các phố Nguyễn Thái Học, Cao Bá Quát, Cửa Nam, Sinh Từ đều nhập ngũ cùng một đợt giữa tháng 9. Lũ trẻ học trò con nít ngày nào bất ngờ hưởng niềm hạnh phúc được gặp Bác Hồ vào đúng ngày hòa bình cuối cùng, đều đã trưởng thành lên, đều đã là những chàng trai mạnh mẽ và quả cảm, cùng một quyết tâm sắt thép, đồng lòng lên đường ra trận đúng vào giai đoạn “sau ngày Bác mất” cam go và ác liệt nhất của cuộc kháng chiến.

Tôi và Nguyễn Kim Thái lại bên nhau, cùng tiểu đoàn tân binh 969, cùng đại đội, cùng trung đội. Một đêm cùng nhau trong phiên gác, Thái nói cho tôi biết rằng hồi đó, chỉ một ngày sau hôm cả lớp chúng tôi vào thăm Phủ Chủ tịch, Thái đã được nhận quà của Bác Hồ. Một áo bông, một tấm khăn len, một đôi giày bát-kết. Thư ký riêng của Bác đưa quà tới tận nhà Thái sâu trong ngõ hẻm phố Kim Mã.

Sau ba tháng huấn luyện tân binh ở Bãi Nai rồi Yên Thế, chúng tôi được phiên chế vào các đơn vị khác nhau. Tôi qua sư đoàn bộ binh, hành quân vào Tây Nguyên. Còn Thái, hẳn là vì rất giỏi toán, nên được điều vào binh chủng tên lửa.

Thái hy sinh tháng 12 năm 1972, ở Hà Nội, trong chiến dịch 12 ngày đêm đánh B52.

Ấy là thế hệ chúng tôi. Thế hệ chiến binh tháng 9 năm 1969.

* * *

Năm 1969

Khi nhớ lại năm 1969 tâm trí tôi luôn thấy hiện lên một màn mưa trắng trời, một triền sông ngầu đỏ, mênh mông cuộn xiết, nặng nề lao chảy như sắp cuốn phăng đi cả đôi bờ. Một mùa thu cùng một Hà Nội chưa từng thấy bao giờ trước đó và không bao giờ còn thấy lại nữa, mà nhiều chục năm qua rồi không phai mờ trong ký ức.

Mùa thu gian nan, triền miên mưa bão. Năm nào cũng thế, nhưng chừng như càng vào sâu trong cuộc chiến thì lũ sông Hồng càng năm càng lớn thêm lên. Trước rằm tháng 7 đã rất nguy cấp, sau rằm còn nguy cấp hơn. Đến giữa tháng 8 thì thanh niên nam nữ cả phố tôi tất tật không trừ ai được tổng huy động đi hộ đê.

Tới ngày Quốc khánh mực nước đã xuống nhiều nhưng chúng tôi vẫn dốc sức tiếp tục tôn cao và đắp dày thêm đoạn đê xung yếu ở ngã ba sông Đuống đụng sông Hồng. Cho tới tận tảng sáng ngày mồng 4 tháng 9 mới được thay ca. Tám đứa chúng tôi đang ngủ trong lán thì được lay dậy, lên ô tô trở về phố. Cả tám đứa, đứa 17, đứa 18, đứa 19 tuổi, đều có giấy gọi nhập ngũ. Lên xe rồi, tôi lại ngủ tiếp, trong mưa.

Lúc đó khoảng 7 giờ sáng, xe chúng tôi đang trên cầu Long Biên. Cả hai chiều của cây cầu độc đạo qua sông Hồng đều đông nghịt, chen chúc người và xe, chuyển động chầm chậm từng bước chân, từng vòng bánh. Không tiếng còi xe hơi, không tiếng chuông xe đạp, không một tiếng nói tiếng cười, không cả những tiếng chân bước mặc dù dòng người vẫn đang không ngừng chuyển động. Mặt ướt nước mưa và đang mắt nhắm mắt mở nhưng chỉ trong chốc lát tôi đã nhận ra rằng mọi người, tất cả, hàng ngàn con người, trên suốt dọc chiều dài gần hai cây số của cây cầu ngang qua luồng nước xiết đều đang vừa đi vừa khóc, đúng hơn là lặng khóc, khóc không thành tiếng. Bởi vì im ắng vô cùng. Người đi bộ dọc hai bên lan can cầu, đi tay không hoặc đang gồng gánh, người đang đạp xe, người đang dắt xe, người đang đứng trên các thùng xe tải, người ngồi trong các xe chở khách. Những anh bộ đội. Những người dân phố. Những người dân quê. Bước đi và khóc, trong mưa.

Tám đứa chúng tôi trên thùng xe và cả anh tài xế trong ca bin đều là những kẻ từ trên trời rơi xuống. Cả tuần liền bám trụ đê, lội bùn đội đất, ngơi tay là lăn ra ngủ, chúng tôi bị mưa lũ cô lập với thế gian. Vậy nhưng chỉ giây lát thôi, nhìn nỗi thương đau nhất loạt cùng lúc của cả một dòng người đông nghịt đang nghẹn ngào bước đi trong mưa, chúng tôi hiểu ngay ra sự thể.

“Bác Hồ...”. Một ai đó trong chúng tôi thảng thốt thì thào, ngập ngừng. Không dám chắc chắn điều mình nghĩ, nhưng chúng tôi đều đã cảm nhận chắc chắn điều đó. Bởi vì đối với chúng tôi, ngay cả trong thời kỳ rất nhiều đau thương ấy thì một nỗi đau lớn lao nặng nề, sâu thẳm và muôn người như một đến nhường ấy chỉ có thể là do một duyên cớ duy nhất ở trên đời mà thôi.

Đúng lúc đó, một đầu tàu xe lửa không kéo theo toa, một mình chạy không tải qua cầu, từ Hà Nội sang Gia Lâm, khi ngang qua chỗ chúng tôi đã bất thần rúc còi. Có thể nói là cái đầu tàu ấy cất tiếng than. Không phải về sau mường tượng lại mà tôi nói thế, mà thật sự là như thế, đấy là tiếng than, như của con người. Lập tức, một chiếc tàu kéo neo đậu đâu đó ở mạn Phà Đen cũng cất lên tiếng còi. Rồi từ phía ga Gia Lâm, nhiều đầu xe lửa khác đồng loạt cất tiếng. Những tiếng còi tàu đớn đau khản đặc vang vọng trong màn mưa.

Phía dưới, bên chiếc xe chở chúng tôi, một chị phụ nữ đang dắt xe đạp bỗng bật khóc thành tiếng. Cả ngàn con người không thể cầm lòng đã không cầm được nước mắt.

Tiếng nức nở truyền dọc đoàn người, lan đi trên cầu, ngang qua triền sông...

Năm tháng trôi qua, giờ đây nhìn về thời điểm ấy, qua những bức ảnh và thước phim tư liệu, người ta thường thấy một Hà Nội nước mắt. Nhưng những ai từng thật sự trải qua những ngày đó khi nhớ lại đều sẽ nhớ đến một Hà Nội trầm lắng, cương nghị. Cả một thành phố cắn chặt răng lại chịu đứng để trụ vững, vượt qua nỗi đau tột cùng.

Hồ Chủ tịch qua đời, mất mát lớn lao đó đã khiến toàn dân sát cánh bên nhau hơn bao giờ hết, biến nỗi đau thương thành sức mạnh. Nghe những lời đó, ngày nay người ta có thể thấy là văn vẻ và đại ngôn. Song với những ai đã sống trong lòng Hà Nội vào mùa thu năm 1969 thì khi nghe nhắc lại những lời tưởng như là khẩu hiệu ấy sẽ nhìn thấy lại rõ ràng tâm trạng, ý chí, nghị lực, bản lĩnh của chính bản thân mình, gia đình mình, bạn bè, hàng xóm của mình ngày đó.

Với những người ở lứa tuổi chúng tôi, sinh ra trong những năm 1950, 1951, 1952, nhập ngũ từ khoảng năm 1968 trở về sau, nếu được hỏi năm nào là năm ác liệt nhất trong đời bộ đội đều nói là năm 1972, tuy nhiên gian khổ nhất, nguy nan nhất thì hầu hết xác định là năm 1969- 1970. Đây là thời sau Mậu Thân, mà cũng nhiều người gọi là “thời kỳ đầu sau ngày Bác mất”.

Làm thế nào, nhờ vào đâu nhỉ mà đồng đội mình và chính bản thân mình có thể chịu đựng được, trụ vững được trong những ngày tháng vượt quá xa sức chịu đựng của con người như vậy để rồi vượt qua, gồng mình gượng dậy, vươn dậy, để rồi cuối cùng tiến được tới ngày toàn thắng?

Tháng 9-1969, ngày tập trung tân binh của khu đội Ba Đình lẽ ra là mồng 7, đã phải lùi tới ngày 15. Một là vì nguyện vọng của anh em chúng tôi muốn được lưu lại Hà Nội trong tuần quốc tang để được xếp hàng cùng mọi người vào hội trường Ba Đình viếng Bác, hai là vì số lượng thanh niên tình nguyện nhập ngũ nhiều lên vô kể trong những ngày ấy. Tình nguyện một cách quyết liệt, mong mỏi được lên đường ngay, không chấp nhận nán chờ đến đợt sau. Tất nhiên không riêng khu Ba Đình, không riêng Hà Nội mà cả nước, địa phương nào cũng thế.

Đợt tân binh mùa thu năm ấy, được gọi là đợt 969, đoàn 969, là một đợt mà trong đó rất nhiều người là con trai cuối cùng hoặc là con trai độc nhất của các bà mẹ, nghĩa là những người vốn không thuộc vào diện được gọi tòng quân nhưng vẫn nhất định dứt áo ra đi lên đường chiến đấu.

Trong tiểu đoàn tân binh chúng tôi hồi đó có cả một số bạn học đã có giấy gọi vào đại học trong nước và cả nước ngoài. Có người đã trên tàu liên vận tới biên giới Việt-Trung rồi, nghe tin Bác mất, liền xuống tàu, quay trở về Hà Nội nhập ngũ...

Sau ngày 30-4-1975 khắp cả nước đâu đâu cũng vang dậy bài ca Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng. Khi đó đang ở Sài Gòn, lần đầu tiên nghe thấy bài hát ấy, trước mắt những “lính 969” chúng tôi, tất nhiên, một cách không thể nào khác được, hiện lên cảnh tượng Hà Nội mùa thu năm 1969. Mà với riêng tôi thì cụ thể là khoảnh khắc đó, trên cầu Long Biên, ngang qua giữa sông Hồng sóng xô cuồn cuộn, khoảnh khắc thoạt tiên và bất thần, choáng váng biết tin Hồ Chủ tịch qua đời. Biết tin Bác mất nhưng không phải là do nghe thông báo qua đài phát thanh, mà là nhìn thấy tin đó ở thần sắc và tâm khảm của tất cả mọi người, cảm thấy tin đó từ trong không gian đất trời.

BẢO NINH