HV104 - Nhà văn NGUYỄN CHÍ TRUNG - Lý tưởng, nhân cách, sáng tạo

Nguyễn Chí Trung là người sống hết lòng vì người khác, lấy niềm vui hạnh phúc của người khác làm niềm vui hạnh phúc cho mình. Hơn thế, anh còn là người phấn đấu, hy sinh suốt đời cho Đảng, cho nhân dân.

Nói về trận mạc, hiếm có người dũng mãnh bất chấp hiểm nguy như Nguyễn Chí Trung. Đi làm phái viên nhưng đụng việc anh quên khuấy. Với tiểu đoàn, anh như chính trị viên. Xuống đại đội anh vừa làm công tác tổ chức vừa động viên bộ đội. Vào trận, anh là lính cầm súng đánh nhau. Anh say mê đánh giặc đến kỳ lạ. Năm 1974, anh đi với Sư đoàn 2 đánh Nông Sơn. Tôi theo Sư đoàn 304 đánh Thượng Đức. Trận đánh ở Thượng Đức gặp khó, bộ đội thương vong nhiều, phải dừng lại. Tôi nghe tin có một nhà báo của quân khu đang khuấy đảo ở cửa mở. Thì ra dứt điểm xong Nông Sơn, anh vù về quân khu báo cáo tình hình rồi xin đi tiếp, đánh Thượng Đức. Ở Thượng Đức, anh xuống ngay tiểu đoàn chủ công. Trong bom đạn mờ mịt, anh lắc đầu ái ngại cho bộ đội, rồi tức tốc tìm về chỉ huy trung đoàn, sư đoàn đề đạt ý kiến riêng của mình. Anh khẩn thiết đề nghị thay đổi vị trí mở rào. Mọi người hỏi anh là ai, anh bảo anh là phái viên quân sự của Bộ tư lệnh Quân khu. Lời nói của anh trở nên có sức nặng hơn. Anh lại lao xuống với tiểu đoàn, với các đại đội, đốc chiến. Vậy nhưng bao lần xông pha, anh chỉ bị thương chứ không bị bom đạn quật ngã. Đi gùi gạo, chúng tôi đi hai ngày, anh chỉ đi một ngày hoặc ngày rưỡi. Đường dài, leo dốc bở hơi tai nhưng anh đi liền mạch. Đi nhanh về nhanh vì cả núi công việc đang chờ ở nhà. Nhiều việc, người bình thường không thể làm nhưng vào tay Nguyễn Chí Trung ngon ơ! Anh là Bí thư Đảng đoàn Hội Văn nghệ giải phóng miền Trung Trung bộ, công việc bên Khu ủy bộn bề. Lụi hụi, sấp ngửa vì công việc nhưng không thấy anh kêu ca phàn nàn bao giờ.

Đọc bài, góp ý sửa bản thảo, tổ chức trao đổi nghiệp vụ, tổ chức đi theo bộ đội đánh giặc, 12 năm liền anh là Chiến sĩ thi đua. Huân chương, huy chương bên Khu ủy, bên Quân khu cấp cho anh nhiều vô kể. Ở Thượng Đức, buổi lễ mừng công, Bộ tư lệnh cho người tìm anh để trao huân chương nhưng không thấy anh đâu. Dứt trận đánh, anh vội vã băng đèo lội suối về Quân khu báo cáo tình hình. Anh là con người của công việc, có cảm giác rời công việc anh không còn là anh nữa.

***

Cách mạng toàn thắng, một chương mới mở ra cho dân tộc. Vinh quang, sum họp, nhưng khó khăn vây bủa. Một số đơn vị bộ đội giải thể, một số đi làm kinh tế. Tạp chí Văn nghệ Giải phóng Trung Trung bộ của Ban tuyên huấn Khu ủy kết thúc. Người về địa phương, người ra Trung ương. Tạp chí Quân Giải phóng Trung Trung bộ còn nhưng công việc đang thay đổi, Nguyễn Chí Trung đứng ngồi không yên: “Có một đội ngũ văn nghệ sĩ trải qua chiến tranh, trưởng thành trong chiến tranh, quý vô chừng. Không biết giữ, phát triển, thật là phí. Bản thân mình cũng thấy có tội”. Anh hay phàn nàn thế. Với cương vị Bí thư Đảng đoàn Văn nghệ, có quan hệ tốt với các thủ trưởng cấp trên lại giỏi thuyết phục, Nguyễn Chí Trung đã đề đạt một phương án: Chuyển một số văn nghệ sĩ từ biên chế của Khu ủy sang quân đội.

Lực lượng này tập trung ở hai nhà số 1B Ba Đình và số 10 Lý Tự Trọng. Cùng với đó, một cơ quan mới ra đời: Trại sáng tác văn học Quân khu V. Nguyễn Chí Trung làm trại trưởng, nhà văn Phan Tứ làm trại phó. Sau chiến tranh, nhiều nhà văn, nhà thơ muốn có thời gian quây tụ lại bàn bạc, động viên nhau viết về đề tài còn nóng rãy. Nguyễn Chí Trung đã đáp ứng được nguyện vọng đó. Trại kéo dài được 5 năm. Các nhà văn nhà thơ chủ yếu chỉ sáng tác. Nguồn kinh phí quân đội cấp có hạn, Nguyễn Chí Trung đã thành lập một ban hành chính đắc lực phục vụ cho cơ quan. Tư lệnh Chu Huy Mân đến thăm trại, đã ngạc nhiên kêu lên: “Đội quân tăng gia, chăn nuôi của Trung thật cừ, phải phổ biến kinh nghiệm cho Quân khu đấy nhé!”.

Có thể nói, cả nước thời điểm sau chiến tranh và cả đến bây giờ chưa có một mô hình trại sáng tác nào như trại sáng tác Quân khu V. Trại kết thúc đã cung cấp một nguồn cán bộ làm công tác báo chí, văn học nghệ thuật khá phong phú cho trung ương và các địa phương. Điều quan trọng hơn, những thành viên của trại trong 5 năm ấy và những năm sau đó đã cho xuất bản những tác phẩm văn học sáng giá, được Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước và nhiều giải thưởng danh giá khác… Suốt những năm ấy, Nguyễn Chí Trung hầu như không viết được chữ nào. Anh miệt mài đọc tất cả bản thảo của trại, góp ý sửa chữa từng câu từng chữ. Có những tập trường ca như: Ở làng Phước Hậu của Trần Vũ Mai, anh thuộc còn hơn tác giả. Tiểu thuyết Vàng Crum của Nguyễn Đăng Kỳ, trang bản thảo nào cũng có gạch xóa của ngòi bút anh, những thêm bớt anh ghi đặc kín bên lề. Đọc, tổ chức, trao đổi giúp nhau. Đương nhiên, công việc mà Cục Chính trị và Quân khu giao cho anh chồng chất, thời gian đâu để anh ngồi sáng tác.

Thời gian ở trại, đôi lần tôi theo Nguyễn Chí Trung đi một vài nơi. Một số bí mật về gia đình anh được hé lộ. Đi Quảng Nam, anh dẫn chúng tôi về huyện Hòa Vang. Bước chân đến làng xã nào anh cũng sà vào được, hăm hở chân tình như nơi đó chính là nơi sinh ra mình. Dân làng xúm đến vồn vã hỏi han kể chuyện. Anh là người hay quên có tiếng, nhưng những dịp thế này thì nhiều người ngả mũ kính phục trí nhớ của anh. Anh kể tên từng người, nhắc đến đặc điểm tính cách của họ, thậm chí nhớ nhà ở trước đây của mỗi người, cạnh cổng có cây gì, cách đồn địch bao nhiêu buổi đường. Những chuyện buồn vui của chính họ từ thuở nào, đã quên nhưng Nguyễn Chí Trung vẫn nhớ. Anh nhắc lại khiến họ sửng sờ. Ai cũng muốn kéo Nguyễn Chí Trung về nhà mình. Được mọi người ở quê yêu quý đến vậy thật là hạnh phúc. Một lần khác, đến Quảng Ngãi, anh dẫn chúng tôi vào Tịnh Minh. Dấu chân anh ghi mênh mông trên những làng quê một thời chiến tranh. Nơi nào cũng đầy ắp kỷ niệm. Mới đến đầu làng, nhác thấy, mọi người đã nhận ra anh và la tướng lên: “Ông Trung lụt. Ông Trung lụt về bà con ơi!...”. Thì ra trận lụt khủng khiếp của miền Trung năm 1964, Nguyễn Chí Trung đã dùng xuồng mải miết cứu dân bị nước cuốn trôi. Cứu được họ khỏi chết ngập, nhưng họ cũng khó sống vì không có cái ăn. Nguyễn Chí Trung đã nhân danh cách mạng buộc các nhà giàu có trong xã phải xuất kho cứu đói. Anh đã trực tiếp nấu cơm vắt thành nắm đi phân phát cho từng gia đình bị nạn. Gặp lại anh, dù đã mấy chục năm trôi qua, ai mà không rưng rưng, ai mà không muốn ôm choàng lấy anh để tỏ lòng biết ơn trời bể. Chia tay với bà con Tịnh Minh, anh để rơi những giọt nước mắt. Anh than thở: “Không có thời gian ngủ lại một đêm với bà con Tịnh Minh. Tội chớ! Đây cũng là quê hương của mình đó...”. Ở Vạn Giã - Khánh Hòa, anh có một bà dì quý anh quá con đẻ. Lần đó, bà dẫn Nguyễn Chí Trung vào nghĩa trang Đầm Bò. Anh chưa biết mộ cha ở chỗ nào. Khu nghĩa trang nhiều mộ xây công phu. Riêng mộ cha anh rất sơ sài. Anh khóc. Bà dì phân bua: “Cực lắm, bom đạn liên miên, họ hàng anh em mỗi người mỗi ngả. Giữ được cái mộ để con cháu về thắp hương là phúc lắm rồi”. Ở Bình Thuận, anh có một cô em gái. Trông già sụm. Khi kể về chuyện này, anh sụt sịt: “Gia đình ly tán, nó sống trôi dạt, vật vờ. Thương lắm. Còn có ngày gặp lại đã là may...”. Anh đã đưa cháu Hà, con của em gái, ra Đà Nẵng nuôi, ăn học, coi như đứa con yêu của mình. Nào ngờ, ra trường chưa được bao lâu, cháu bị tai nạn giao thông qua đời. Ở Sài Gòn, mối quan hệ của anh chằng chịt hơn. Đất nước thông thương, anh dẫn chúng tôi đến nhà người em trai. Lúc đó Nguyễn Chí Trung là đại tá nhà văn, người đầy chiến tích cách mạng nhưng em lại là viên sĩ quan phía bên kia. Nghe nói, gặp em lần đầu anh đã mắng mỏ một trận nên thân. Lần này, tôi đã lo sẽ có chuyện không lành xảy ra. May thay… Sau này, không nghe anh nhắc về đứa em trai của mình. Chúng tôi cũng không biết hiện thời gia đình đó ra sao. Anh còn có một người cháu là ca sĩ nổi tiếng ở Sài Gòn: Thanh Lan. Cô cháu nghe tin Nguyễn Chí Trung đến gặp, vừa vui vừa sợ hết hồn. Thế đấy.

Nhân đây xin nói thêm về quan hệ bất ổn giữa nhà văn Nguyễn Chí Trung và nhà văn Nguyên Ngọc sau giải phóng. Tôi không nhớ thật rõ năm đó là năm nào. Hình như là năm 1985 hay 1986 gì đó. Anh Nguyễn Chí Trung đi viện. Lần đầu tôi thấy anh đi viện. Tôi và anh Nguyên Ngọc vào Viện Quân y 108 thăm. Anh Ngọc và anh Trung, hai người bạn thân thiết trò chuyện rối rít tận lúc chia tay. Bỗng nhiên, anh Nguyên Ngọc nói với tôi trước lúc ra cửa viện: “Này, những điều bọn mình nói với các cậu trước đây hãy quên đi nhé!”. Tôi sửng sốt. Không thể kể hết những gì anh Nguyên Ngọc nói với chúng tôi về chủ nghĩa Mác-Lênin, về chủ nghĩa xã hội. Nhiệt tình, say đắm. Không thể kể hết những điều anh dạy dỗ chúng tôi viết về cái tốt, cái xấu, về những tấm gương xả thân cho lý tưởng cách mạng... Chao ôi! những điều đó bây giờ bị sổ toẹt hết sao? Còn nhớ một lần tôi đi chiến dịch về, ngẫu hứng viết một truyện ngắn mà nhân vật chính là tiểu đoàn trưởng phía địch. Anh Nguyễn Chí Trung bảo tôi đưa cho anh Nguyên Ngọc. Anh Ngọc đọc xong nói: “Miền Nam có câu: Ra ngõ gặp anh hùng. Cậu vào đây, biết bao gương chiến đấu hy sinh của dân, của bộ đội, không viết lại đi viết về thằng địch”. Một lần khác, tôi viết về một đại đội trưởng bên ta, dũng cảm chiến đấu mưu mẹo ngoan cường nhưng lại hách dịch, gia trưởng ảnh hưởng đến bộ đội. Anh Nguyên Ngọc không nói với tôi nhưng nói với một người trong cơ quan: “Người anh hùng nếu có vết nhọ trên mặt thì nhà văn nên lau vết nhọ ấy đi”. Mới mon men vào nghề, lớp đàn anh tầm cỡ như anh Nguyên Ngọc đã nói không thể sai. Cái thời ấy phải thế. Nhắc lại chỉ là để bạn đọc hiểu: Hôm ở Viện Quân y 108 tôi bị bất ngờ và ngạc nhiên biết chừng nào. Tôi quay nhìn Nguyễn Chí Trung. Mặt anh lầm lầm, nhưng không nói gì. Đi thêm vài bước, anh giật áo tôi: “Dừng lại anh dặn: Những điều bọn anh nói trước đây cơ bản đúng cả đấy...”. Có lẽ bắt đầu từ đấy chăng? Hai anh đã có những suy nghĩ khác nhau… Anh Nguyên Ngọc ca ngợi các nhà văn mà những sáng tác được coi là “đổi mới quá khích”. Anh bất hợp tác với Hội Nhà văn Việt Nam, không nhận Giải thưởng Nhà nước. Không chấp nhận một số thành viên trong Hội đồng xét giải. Cho rằng Hội đồng không khách quan. Anh là người đứng đầu Ban vận động thành lập Văn đoàn độc lập Việt Nam. Anh muốn có một hội nghề nghiệp theo cách của anh. Anh muốn đất nước đi theo con đường khác, không phải con đường xã hội chủ nghĩa. Mặc dầu anh từng là Bí thư Đảng Đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, là Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyễn Chí Trung phản đối kịch liệt những ai viết không đúng sự thật, nhất là viết về bộ đội, về chiến tranh. Đã có sự khác biệt khi đánh giá tác phẩm này, tác giả kia. Có cuốn sách anh Ngọc khen hết lời, anh Trung lại bảo: “Cán bộ chiến sĩ như trong cuốn sách ấy thì làm sao ta thắng được Mỹ chớ. Bịa đặt bậy bạ”. Căng thẳng nhất vẫn là quan điểm về con đường đi lên của đất nước, của dân tộc. Nguyễn Chí Trung nói: “Có người bảo chậm nhất là 10 năm nữa, chủ nghĩa xã hội sẽ không còn ở Việt Nam. Sợ không sống được đến 10 năm nữa nhưng nếu chết mà lời nói kia là sự thật xin các người cứ đái vào mộ tôi”. Con người ấy cho đến lúc bị bệnh trọng vẫn không nguôi đấu tranh cho lý tưởng mà mình theo đuổi.

Ở Campuchia, một người mà Nguyễn Chí Trung mến phục đó là thủ trưởng Lê Khả Phiêu. Khi quân tình nguyện rút hết về nước và được bổ nhiệm là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, sau đó được bầu là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, người thủ trưởng ấy không quên người giúp mình rất tận tụy ở chiến trường Campuchia. Ông đã chọn Nguyễn Chí Trung làm trợ lý cho mình. Có nhiều ý kiến khác nhau trong vai trò trợ lý của Nguyễn Chí Trung nhưng có thể khẳng định: anh là người đam mê công việc, hết lòng vì công việc. Lần đó, tôi theo đoàn của Tổng bí thư đi chống lụt ở Quảng Nam. Buổi cơm trưa, không thấy Nguyễn Chí Trung đâu, mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Trong đoàn có người muốn đi tìm. Ông Phiêu bảo: “Kệ. Chắc lại ghé vào cái phòng nào đó ngồi viết đấy mà”. Cho đến buổi cơm chiều mới thấy, Nguyễn Chí Trung lộ ra, cười khà: “Mình được dồn hai suất vào một bữa đó hỉ?”. Nguyễn Chí Trung là thế, nhịn ăn, thức suốt đêm cho công việc là chuyện bình thường. Các thủ trưởng trước của anh đều biết vậy. Thương anh nhưng lại coi đó như một sự đương nhiên. Không hề nghĩ đến việc đãi ngộ, cất nhắc. Thủ trưởng Lê Khả Phiêu khác. Nguyễn Chí Trung được phong tướng và ông nói: “Lẽ ra việc đó phải có từ lâu”.

***

Đến nay, Nguyễn Chí Trung vẫn lủi thủi một thân một mình. Chúng tôi biết anh có những mối tình khá lãng mạn và sâu thẳm. Hồi tập kết ngoài Bắc, yêu một cô gái Hà Nội nhan sắc. Vào chiến trường, yêu đắm đuối một diễn viên múa xinh đẹp. Đã gần đến hôn nhân thì cô ra Bắc chữa bệnh rồi lấy chồng. Ở Campuchia là cô Tổng biên tập báo Nhân Dân. Hai người yêu nhau quấn quýt nhưng vẫn không thành. Rồi cô kỹ sư hóa học ở Hà Nội. Yêu mê mẩn, ngẩn ngơ, nhưng kết quả không đến đâu… Tình yêu cũng cần thời gian. Một người lúc nào cũng lấn bấn, bận rộn công viêc như anh, khó thay! Về hưu, tưởng sẽ có thời gian cho mình nhưng chợt nhận ra: “Tuổi lớn rồi, tính chi chuyện đó nữa”.

Nhưng anh đã có một tình yêu khác. Tình yêu với Văn học nghệ thuật. Anh viết không nhiều nhưng sớm nổi tiếng với truyện ngắn Bức thư làng Mực. Những năm ở chiến trường, do nhu cầu phải có bài cho tạp chí, anh viết một vài truyện ngắn và một số bài ký. Anh chỉ dành hai ba hôm để viết, ngày cuối cùng khi bản thảo đưa xuống nhà in mới xong. Dẫu thế, từng câu từng chữ của anh được cân nhắc cẩn trọng. Bao giờ anh cũng chú ý đến chất văn trong sáng tác của mình. Bản thảo trước khi đưa in, anh đọc cho chúng tôi nghe, nhờ nhận xét, góp ý. Truyện và ký của anh có chất hào hùng nhưng vẫn mềm mại uyển chuyển. Chất lý tưởng quán xuyến từ đầu đến cuối. Mạch văn bay bổng, trữ tình. Tôi nhớ mãi lần đầu quân ta tấn công Thượng Đức bất thành, phải dừng lại kiểm điểm rút kinh nghiệm. Đêm đó, Đài Tiếng nói Việt Nam đọc bút ký Khi dòng sông ra đến cửa của anh. Giọng đọc trong trẻo của cô phát thanh viên vút lên niềm lạc quan, báo hiệu ngày toàn thắng đang đến. Nhưng để có giây phút vỡ òa đó, quân dân ta còn phải vượt qua muôn trùng khó khăn. Bài viết đầu tháng 4 năm 1974 có tính hùng biện khái quát toàn chiến trường mà lại như viết cho mọi sự đang xảy ra ở Thượng Đức vậy. Thú thực, vào cái giây phút ấy, tôi đang hoang mang, nghe xong bài ký bỗng bình tâm trở lại. Sáng ra, tôi khoác ba lô từ trung đoàn xuống tiểu đoàn chủ công - nơi Nguyễn Chí Trung đang hướng dẫn bộ đội dùng bộc phá liên tục mở cửa. Những bài viết tương tự sau này được tập hợp trong các tập ký và truyện ngắn: Đà Nẵng, Bức thư làng Mực, Hương cau, Khi dòng sông ra đến cửa. Nếu phải tìm những nhà văn chắt lọc câu chữ, chọn những sáng tác rời vào tập, kỹ lưỡng, khó tính, nhất định Nguyễn Chí Trung đươc ghi vào danh sách đó. Nhưng nghiệp văn của anh thực sự thăng hoa khi đã về hưu. Về hưu, anh còn vô khối công việc phải làm như làm sách, ảnh về Đoàn Văn công Quân khu V. Một thời anh là trưởng đoàn. Đọc, chọn bài, in tập Văn nghệ sĩ Liên khu 5. Lý tưởng - nhân cách - sáng tạo. Sách không chỉ tập hợp chân dung một số văn nghệ sĩ tiêu biểu trong văn thơ, hội họa, điện ảnh, ca kịch… ở Liên khu 5 mà còn tìm ra những bài viết tiêu biểu của họ, về họ. Anh lo đất, lo đá, chạy tiền, thuê khắc bia tưởng niệm những văn nghệ sĩ hy sinh trên chiến trường Khu V. Rồi nữa, đi lại nhiều lần sang Campuchia, làm nốt những việc còn dang dở và lấy thêm tài liệu để viết. Nhưng dù sao anh cũng có nhiều thời gian hơn cho sáng tác. Tiếng khóc của nàng Út dồn nén tư tưởng, tình cảm bức xúc của nhà văn về một thời khốc liệt của chiến tranh. Yêu nhân dân vô cùng, gắn bó máu thịt với những vùng đất từng trải, ngòi bút Nguyễn Chí Trung đã có sự bứt phá, vượt lên chính mình. Anh đã chọn đúng giọng điệu phù hợp với chất liệu cuộc sống thời đó. Chất văn hóa được anh nghiên cứu rất kỳ công và đưa vào tác phẩm nhuần nhuyễn. Có vốn sống dồi dào nhưng không lạm dụng. Anh cất công đi lại những nơi miêu tả trong tác phẩm, để lấy lại cảm xúc. Hồn vía hiện thực cuộc sống cùng với bút pháp lãng mạn của anh đã tạo nên một Tiếng khóc của nàng Út có sức lôi cuốn người đọc. Tập tiểu thuyết đầu tay cũng là tập sách đã giành cho anh ba giải thưởng: Giải thưởng Nhà nước, giải thưởng ASIAN, giải thưởng Bộ Quốc phòng. Hiện anh đang viết về Campuchia, một dân tộc anh vô cùng yêu thương, một chiến trường đẫm máu và nước mắt anh đã gắn bó mấy chục năm liền. Xương máu anh đổ xuống đất đó kém gì xương máu anh đổ xuống đất Việt trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Anh đang viết với tình yêu bao la và sâu thẳm. Anh đã đọc một số cuốn sách viết về Campuchia và anh nói: “Cuộc chiến của quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia không phải như vậy. Mình sẽ viết khác”. Mong sao sức khỏe anh hồi phục để viết trọn vẹn cuốn sách. Ngay những chương đầu cuốn sách đã mang đến niềm thích thú và kỳ vọng cho người đọc. Cầu mong.

Hà Nội cuối năm 2015

 

----------------------

* Đại tá, nhà văn, tác giả của tiểu thuyết Thượng Đức, Đất máu... (H.V.)

NGUYỄN BẢO*