HV111 - Về một người thầy

Bao nhiêu năm trôi qua ký ức tôi vẫn còn nguyên vẹn hình ảnh về thầy. Cả gia đình thầy tôi chết trong trận bom B.52 của Mỹ ở Láng Thượng - Hà Nội, năm 1972. Lúc đó chiến tranh ly tán, cái chết rình rập ở khắp nơi, chỗ này chỗ kia bị trúng bom cũng chỉ nghe loáng thoáng trên đài. Sau này mấy đứa bạn tôi có kể lại rằng, một quả bom trúng ngay cạnh hầm trú ẩn của gia đình thầy, xác thầy bị hất tung lên, nằm vắt trên cành cây trước ngôi chùa cạnh nhà. Thầy cô và hai em rất kháu khỉnh, em trai lớn đâu mới tầm 7, 8 tuổi… Chiến tranh là như thế. Lạnh lùng, tàn nhẫn.

Nhiều thế hệ học sinh trường cấp II Yên Hòa - Hà Nội vẫn nhắc thầy Chu Bá Thước với lòng tiếc thương, kính trọng. Với riêng tôi, thầy không chỉ là người thầy truyền dạy kiến thức, mà còn là một người cha ấm áp, dạy cho mình nhân cách sống và đạo hạnh của một nghề cao quý. Thầy tôi có một nét gì đó rất giống với nhân vật trí thức, quý tộc Andrey trong tác phẩm Chiến tranh và hòa bình của văn hào Nga Lev Tolstoi. Khuôn mặt đẹp, hơi lạnh và rất kiêu hãnh. Nước da thầy trắng, có mụn ruồi to trên khóe mép. Mặc dù là một giáo viên dạy toán, lý rất giỏi, nhưng cái dáng vẻ kiêu hãnh, hơi bất cần đời của thầy, cộng thêm lý lịch con địa chủ, đã như một cái gì hơi gai gai trong mắt nhiều người. Trưởng bộ môn tự nhiên trong trường khi đó là thầy N. Thầy N. còn được vinh dự mời dạy cho nhiều lớp học sinh chuyên toán của thành phố, nhưng cả trường tôi ai cũng biết thầy tôi mới là người giỏi nhất. Đó là những chuyện bình thường của đời sống, không chỉ xảy ra trong thời chiến tranh ác liệt, đôi khi người đứng ở trên không mặc định là người giỏi nhất. Và người tài hoa, kiêu hãnh, không biết cắm cúi vâng lời lại thường gặp không ít thị phi và không được trọng dụng.

Thời học sinh tôi là đứa văn dốt võ dát, nhưng bù lại các môn tự nhiên luôn đứng đầu lớp. Tôi còn nhớ, hôm thầy tôi lên lớp điểm môn toán cho mấy chục thầy cô các trường thành phố về rút kinh nghiệm. Thầy gọi tôi lên bảng trả bài và thản nhiên tuyên bố trước các đồng nghiệp “Cách giải hay. Về chỗ. Thầy cho em 40 điểm”. Cả lớp cứ tưởng thầy nói đùa, nhưng trong sổ điểm của tôi có hẳn con số 40 tròn trĩnh. Đến cuối học kỳ, điểm trung bình môn toán của tôi vượt hơn 10 làm cho nhiều người lúng túng. Nghe đâu vì chuyện này thầy đã bị ban giám hiệu khiển trách về “Thói tiểu tư sản, phá vỡ quy tắc giảng dạy”…

Lần khác, trong giờ ra chơi, thầy vẫy tôi ra một góc và bảo “Mai cậu đi thi học sinh giỏi toàn thành phố. Một thằng thông minh như cậu không cần ôn bài, cứ chơi thoải mái rồi đi thi. Học hành là kiến thức cả đời, chứ không phải như con vẹt tự nhốt trong lồng vài bữa là xong…”. Tôi đã sung sướng nghe lời thầy và... thi trượt. Bây giờ nhiều người mới nói đến một nền giáo dục mở, trọng kiến thức, kỹ năng sống hơn việc tạo ra áp lực thi cử, bằng cấp, với sự quá tải nhồi nhét kiến thức, cướp hết tuổi thơ học trò... Thì ngày ấy, trong lòng cuộc chiến tranh khốc liệt, vào những năm 70 của thế kỷ trước, quan niệm về giáo dục của thầy tôi đúng là “không giống ai”.

Cuối năm lớp 7, thầy gọi tôi và cô bạn gái lớp trưởng đến nhà giúp thầy cộng điểm. Tôi để ý trong lớp cô bạn gái rất hay quay xuống nhìn trộm mình và tôi cũng tăm tia cô lớp trưởng rất xinh có hai má lúm đồng tiền. Lừa lúc thầy không để ý, tôi đưa chân dưới bàn tìm chân cô ấy. Ôi! Đây rồi... Tôi đê mê sung sướng đặt chân mình lên chân cô bạn gái. Có lẽ vì sắp phải chuyển cấp học, chia tay nhau nên tôi mới dám uống thuốc liều như vậy. Nhưng, quái lạ, tôi nhấn nhấn lên chân cô ấy mấy lần mà nét mặt cô ấy vẫn lạnh lùng tỉnh bơ. Tôi giả vờ làm rơi cây bút, cúi xuống nhìn, thì ôi thôi hóa ra cả buổi tôi đê mê đặt chân lên cái chân bàn...

Hết giờ, thầy tiễn hai đứa tôi ra đường. Tôi đi chiếc xe đạp Liên Xô con (loại xe đạp mini của Liên Xô thời ấy). Rẽ phải là theo hướng về nhà tôi. Còn cô bạn gái phải đi bộ khoảng nửa cây số mới có bến xe buýt đi về trong phố. Tôi ước gì mình được đèo cô ấy ra bến xe, nhưng không dám. Cô ấy đi bộ được khoảng mươi bước thì thầy gọi tôi lại. Thầy nghiêm trang, nhìn thẳng vào mắt tôi và mắng “Cậu là một thằng ngu. Con trai phải biết ga lăng. Mau đuổi theo, đèo nó ra bến xe...”. Tự nhiên tôi cảm thấy hình như cô bạn gái tủi thân, thút thít khóc, hai bờ vai rung rung dưới chiếc nón nan trắng rộng vành. Thời ấy mấy cô gái Hà Nội có mốt đội nón nan trắng rộng vành như nàng Tônhia trong trẻo, đáng yêu trong bộ phim Thép đã tôi thế đấy. Tôi nhút nhát, đỏ mặt, không tuân lệnh thầy, phóng vù xe về nhà. Vừa đi vừa tự trách mình. Buồn cười là hơn 40 năm sau, tình cờ tôi gặp lại cô bạn gái giờ đã lên bà. Tôi kể cho cô ấy nghe tất cả cảm giác của ngày xưa ấy. Bạn tôi phá lên cười: “Chỉ được cái hay tưởng tượng. Người ta khóc hồi nào...”.

Sau bao nhiêu năm tháng trưởng thành, nếm đủ vinh nhục của cuộc đời, bên tai tôi vẫn văng vẳng câu mắng của thầy tôi. Một thời chiến tranh khói lửa có lẽ chỉ mình thầy tôi dùng chữ “ga lăng”… Với kinh nghiệm của một người đàn ông từng trải, thầy thừa biết chúng tôi để ý nhau. Và thầy yêu chúng tôi, yêu những run rẩy đầu đời của chúng tôi đến mức đã nổi nóng, mắng tôi là một thằng ngu...

Đời tôi có nhiều người thầy mà tôi kính trọng, nhưng hình ảnh về thầy tôi vẫn là những gì đẹp đẽ nhất của một nghề cao quý. Giờ đây, thỉnh thoảng tôi cũng đi dạy cho sinh viên các trường văn hóa nghệ thuật. Ngoài những kiến thức, tôi hay nói với các em về nhân cách sống ở đời. Bởi, dù anh tài hoa và thành công đến mấy mà không có nhân cách, không có lòng yêu thương con người thì quá lắm anh cũng chỉ là kẻ hoạt ngôn, dối trá.

Không có sự trưởng thành nào lớn hơn trong cuộc đời này, là khi ta học làm người tử tế…

Nhà viết kịch Lê Chí Trung