HV118 - Viết sử như thế là giết sử (Tiếp theo kỳ trước)

Chúng tôi không thể tiếp tục nêu tất cả những sai sót trong cuốn sách của TS Nguyễn Tiến Hưng, vì không một tờ báo nào nhận đăng một bài phê bình dài hàng chục trang. Chúng tôi chỉ chọn thêm hai sự kiện trong cuộc tranh đấu của Phật tử và đồng bào các thành thị miền Nam trong năm 1963, mà Nguyễn Tiến Hưng gọi là “cuộc khủng hoảng Phật giáo”.

Chuyện xảy ra đã hơn nửa thế kỷ. Trong khoảng thời gian ấy, đã có hàng chục cuốn sách, hàng trăm bài viết của các nhà nghiên cứu, nhà báo và nhất là của những chứng nhân có mặt tại Huế và Sài Gòn vào lúc các sự kiện diễn ra. Tuy nhìn từ những góc độ khác nhau nhưng các tác giả ấy hầu như thống nhất với nhau về những gì đã thực sự xảy ra. Song Nguyễn Tiến Hưng không chịu tin như thế nên viết: “Cho tới nay, sự thật về biến cố Phật giáo vẫn còn là một vấn đề tranh luận” (tr.431)! Khi không muốn tin vào sự thật thì người ta cứ tiếp tục tranh luận, nhưng xin đừng ngụy tạo hay xuyên tạc lịch sử!

Từ vụ “xô xát giữa chính quyền và Phật tử” tối 8-5-1963…

TS Nguyễn Tiến Hưng viết: Năm 1963, “vào dịp mừng lễ Phật đản kéo dài từ ngày 8 tới 15 tháng 4 âm lịch, lệnh trung ương lại bắt phải theo chỉ thị đã ban hành, đó là cấm treo giáo kỳ nơi công cộng. Có thể đây là hoàn toàn trái ý muốn của Tổng thống Diệm” (tr.430-431).

Ai cũng biết lệnh cấm ấy nằm trong bức công điện số 9195 ngày 6-5-1963 mang chữ ký của viên đổng lý Văn phòng Phủ tổng thống. Công điện đó hiện còn được giữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia số 2 ở TP.Hồ Chí Minh dưới ký hiệu SC.04-HS.8352.

Công điện ấy bắt đầu bằng câu: “Văn phòng Phủ tổng thống trân trọng chuyển đến quý ông [đô trưởng, tỉnh trưởng, thị trưởng…] chỉ thị sau đây của Tổng thống…”.

Ngay cả cựu Tổng thống Mỹ Richard Nixon, người vẫn ca ngợi ông Diệm là “lãnh tụ có năng lực nhất Nam Việt Nam” (South Vietnam’s most capable leader) và không tán thành việc lật đổ ông Diệm, đã viết trong hồi ký của mình: “Diệm, một tín đồ Công giáo, đã ban hành một đạo luật nhằm ngăn ngừa việc hạ thấp tầm quan trọng của quốc kỳ trước giáo kỳ”(1).

Thế mà, để bênh vực “cụ Ngô” của mình, Nguyễn Tiến Hưng bình luận: “Có thể đây là hoàn toàn trái ý muốn của Tổng thống Diệm” (tr.431). Một lời bênh vực kỳ lạ: “chỉ thị của Tổng thống” ban ra mà lại “hoàn toàn trái ý muốn của Tổng thống”! Viết như vậy, Nguyễn Tiến Hưng đã bất chấp sự thật lịch sử, không cần tham khảo tài liệu thành văn, chỉ viết theo ý định chủ quan của mình mà thôi.

Thật ra, lệnh cấm nói trên chỉ là giọt nước cuối cùng làm tràn cái ly đầy. Cuộc tranh đấu của Phật tử và đồng bào các thành thị miền Nam năm 1963 bắt nguồn từ những nguyên nhân sâu xa hơn. Bị áp bức dưới chế độ độc tài, gia đình trị và kỳ thị tôn giáo của Ngô Đình Diệm, Phật tử miền Nam rất phẫn uất, nên khi lệnh cấm treo giáo kỳ ban ra, cờ Phật giáo bị gỡ xuống chỉ hai ngày trước lễ Phật đản, lòng phẫn uất biến thành hành động tranh đấu. Arthur M. Schlesinger Jr., giáo sư Đại học Harvard, cố vấn đặc biệt của Tổng thống Kennedy, nhận định: “Tuy lấy cớ là tôn giáo, cơn biến động có nguồn gốc xã hội và nhanh chóng có những mục tiêu chính trị”(2). John H. Richardson, trưởng chi nhánh CIA ở miền Nam Việt Nam, có ý kiến tương tự: “Cuộc khủng hoảng Phật giáo đã kết tinh nỗi bất mãn rộng lớn hơn, ngấm ngầm trong một thời gian”(3).

Hằng năm, vào tối của hai ngày lễ tôn giáo quan trọng - lễ Phật đản và lễ Giáng sinh - Đài phát thanh Huế có chương trình đặc biệt dành cho các tín đồ Phật giáo và Công giáo. “Như mọi năm, vào lúc 20 giờ ngày Phật đản [8-5-1963], Đài phát thanh Huế sẽ dành riêng [một chương trình] để phát thanh về Phật giáo và các Phật tử sẽ đứng quanh khu đất trống của đài để nghe”, tác giả Quốc Oai đã viết như vậy trong một cuốn sách xuất bản ở Sài Gòn năm 1964(4). Họ tập hợp một cách trật tự và im lặng để chờ nghe buổi tường thuật lễ Phật đản vừa được cử hành sáng hôm ấy tại chùa Từ Đàm, đúng như nhà nghiên cứu Stanley Karnow tường thuật: “Nhiều ngàn người tập họp một cách ôn hòa (peacefully) trước đài phát thanh của thành phố để lắng nghe loa phát thanh một diễn văn của nhà lãnh đạo Phật giáo Trí Quang”(5). Không phải mít tinh hay biểu tình, vì không có giăng biểu ngữ hay hô khẩu hiệu gì cả.

Nhưng chính quyền Huế cấm chương trình phát thanh Phật giáo tối hôm đó vì trong phát biểu tại lễ Phật đản, thượng tọa Thích Trí Quang, Hội trưởng Hội Phật giáo Việt Nam tại Trung Phần, phản đối chính sách kỳ thị tôn giáo mà điển hình là lệnh triệt hạ cờ Phật giáo đúng vào dịp đại lễ của Phật tử.

Thiếu tá Đặng Sĩ, Phó tỉnh trưởng tỉnh Thừa Thiên phụ trách nội an, đến tận Đài phát thanh để ra lệnh giải tán. Giữa lúc mọi người chưa kịp ra về thì, theo lệnh của Đặng Sĩ, xe chữa lửa xịt nước, binh lính ném lựu đạn hơi cay (lựu đạn làm chảy nước mắt) và lựu đạn nổ, bắn trực tiếp vào Phật tử, lái xe thiết giáp lao thẳng vào đám đông… như tường thuật của các nhà nghiên cứu sau đây:

- “Binh lính được gởi tới để chống lại [Phật tử] và khi họ không thể giải tán được những người biểu tình bằng hơi làm chảy nước mắt, viên chỉ huy nhẫn tâm của họ, người được Ngô Đình Cẩn chọn, đã ra lệnh cho họ bắn vào đám đông từ các xe thiết giáp. 9 người bị giết, trong số đó có 3 phụ nữ và 2 trẻ em, người cuối cùng bị bể đầu vì đạn” (Joseph Buttinger)(6).

- “… Sĩ bảo lính của ông ta bắn. Lính bắn trực tiếp vào đám đông và ném ít nhất 15 lựu đạn. Kết quả là một cuộc tắm máu: 9 người bị giết và 14 người bị thương. Hai trong số những người chết là trẻ em. Họ bị nghiền nát dưới bánh xích của xe thiết giáp” (Seth Jacobs)(7).

- “… Người của Đặng Sĩ ném hơn một tá lựu đạn vào đám đông, tiếng nổ chát chúa và mảnh vụn như viên đạn khiến [nhiều người] lao ra như điên dại khỏi nơi khói phủ mịt mờ. Một quả lựu đạn nổ ở cổng đài phát thanh, giết chết 1 phụ nữ và 4 trẻ em. 15 người biểu tình khác bị một loạt vết thương, kể cả gãy tay chân và bể đầu. Vào lúc bạo lực lắng xuống, có 8 người bị giết và 4 người bị thương nặng. Hai trẻ em bị xe thiết giáp nghiền nát, [thịt da] nát tả tơi, nằm trên đường” (Howard Jones)(8).

- “… Lính của Diệm bắn bừa bãi vào đám đông, bỏ mặc những người chết và bị thương kêu rên” (Athur M. Schlesinger, Jr.)(9).

- “… Viên phó tỉnh trưởng, một người Công giáo, ra lịnh cho binh lính của ông ta bắn vào đám đông (ngày 8-5). Sáng hôm sau, khi câu chuyện trở nên sáng tỏ, viên lãnh sự Mỹ ở Huế John Helble tường thuật 7 người chết, bao gồm 2 trẻ em bị xe thiết giáp nghiền nát và 15 người bị thương” (John M. Newman)(10).

- “Lính của thiếu tá Đặng Sĩ bắn vào đám đông và một xe thiết giáp nghiền nát vài người phản đối; 8 người bị giết” (John Prados)(11).

- “9 người bị giết và 14 người bị thương khi họ bị xe thiết giáp nghiền nát” (Hedrick Smith(12) v.v…

Nguyễn Tiến Hưng viết hoàn toàn khác. Ông không hề nói tới những hành động của binh lính của Đặng Sĩ, mà chỉ viết một câu: “Thế là có sự xô xát giữa chính quyền và Phật tử, kết quả là 7 người chết, 1 thường dân và 5 binh sĩ bị thương” (tr.431). Người đọc tự hỏi: làm sao có thể có “sự xô xát” giữa một bên là những người dân thường (phần đông là phụ nữ và trẻ em) trong tay không một tấc sắt và bên kia là những binh lính trang bị súng, lựu đạn, hơi cay… ngồi trên xe thiết giáp? Một lần nữa, để bênh vực “cụ Ngô”, Nguyễn Tiến Hưng bất chấp sự phi lý đó, sẵn sàng xóa đi ranh giới giữa nạn nhân và thủ phạm vụ thảm sát.

… đến “cuộc biểu tình kêu gọi lật đổ chính phủ” đêm 20 rạng 21-8-1963

Sự kiện quan trọng này được nhiều nhà nghiên cứu tường thuật. Xin trích dẫn:

- “Không bao lâu sau nửa đêm ngày 21-8, ông [Diệm] tấn công.

Được trang bị với súng trường, súng tiểu liên và lựu đạn hơi cay, xe chở người của Nhu phóng thật nhanh qua các con đường yên tĩnh ở Sài Gòn đến bao vây chùa Xá Lợi, ngôi chùa chính của Phật tử thành phố. Họ tấn công sau khi cảnh cáo, lục soát ngôi chùa được trang trí đẹp đẽ, rồi bắt đi khoảng 400 tăng ni, trong đó có vị hội chủ Phật giáo Việt Nam già 80 tuổi… Nhu mở các cuộc tấn công tương tự ở các thành phố khác, vây bắt hơn 1.000 tăng ni, các sinh viên hoạt động tích cực và công dân bình thường. Nhiều người bị thương, một số khác mất tích, có thể đã bị giết trong lúc lộn xộn” (Stanley Karnow)(13).

- “Lực lượng Đặc biệt Việt Nam mở cuộc đột kích bi thảm vào lúc nửa đêm vào các chùa Phật trong cả nước [miền Nam Việt Nam]. Các cuộc tấn công là tàn bạo. Mặc dù không ai bị giết, nhưng nhiều Phật tử bị đánh đập và 1.400 người, phần đông là tu sĩ, bị bắt” (Thomas D. Boettcher)(14).

- “Lính Lực lượng Đặc biệt của Nam Việt Nam đội mũ sắt trắng tiến hành cuộc đột kích vào lúc nửa đêm vào các chùa Phật trong cả nước. Hơn 1.400 người, phần lớn là tu sĩ, bị bắt, nhiều người trong họ bị đánh đập” (Hedrick Smith)(15).

- “… Ngày 21-8, Lực lượng Đặc biệt của Nhu - do Mỹ huấn luyện - tiến hành những cuộc đột kích ồ ạt ở Huế, Sài Gòn, và những thành thị khác, lục soát các chùa và bắt đi hơn 1.400 Phật tử” (George C. Herring)(16).

- “Không bao lâu sau, nửa đêm ngày 21-8-1963, chỉ vài phút sau khi tình trạng thiết quân luật có hiệu lực, các đơn vị Cảnh sát chiến đấu và Lực lượng Đặc biệt mở một loạt cuộc tấn công vào các chùa Phật trên cả nước. Những đội quân xung kích của Nhu nhận lệnh trực tiếp từ Dinh [Độc Lập] hơn là từ hệ thống chỉ huy quân sự thông thường, xông vào chùa chiền ở Sài Gòn, Huế, Quảng Trị và Nha Trang. Họ bắt đi hơn 1.400 tăng và ni, lấy mất phần lớn các lãnh tụ của phong trào” (William J. Rust)(17).

- “Chưa đầy một tuần lễ sau ngày Nolting bay khỏi sân bay Tân Sơn Nhất, lực lượng chính phủ trang bị với súng trường, súng tiểu liên, lựu đạn và lựu đạn hơi cay, mở các cuộc đột kích vào chùa chiền khắp miền Nam Việt Nam vào lúc giữa đêm. Ở Sài Gòn, các nhóm lính phá đổ cổng chùa Xá Lợi, xông vào chùa, bắt đi hàng trăm tăng và ni. Ai mà chống cự thì bị đạp bằng gót giày ống và bị đánh bằng báng súng với lưỡi lê. Chuông trên ngôi tháp của chùa vang lên báo động, nhưng liền bị át đi bởi những loạt đạn vũ khí tự động, bởi tiếng gào thét của những người bị kéo lê ra khỏi phòng, bởi tiếng lựu đạn nổ và tiếng kính vỡ” (Seth Jacobs)(18).

- “Chẳng bao lâu sau nửa đêm ngày 21-8-1963, lực lượng chính phủ sử dụng súng lục, súng tiểu liên, súng các bin, súng săn, lựu đạn và hơi cay mắt bắt đầu đàn áp thẳng tay một cách tàn bạo các chùa Phật trong toàn miền Nam Việt Nam. Tình trạng thiết quân luật trong cả nước mà Diệm tuyên bố trước đó ít lâu đã mở đường cho Cảnh sát chiến đấu đội mũ sắt mặc quân phục giả làm lính, kết hợp với Lực lượng Đặc biệt đội mũ bê rê đỏ của đại tá Lê Quang Tung, bắt hơn 1.400 tu sĩ Phật giáo và cáo buộc họ có vũ khí” (Howard Jones)(19) v.v…

Nói chung, các tác giả đều tường thuật giống nhau trên những nét lớn. Ngay cả những người từng ưa thích Ngô Đình Diệm và phản đối việc lật đổ ông ấy, như cựu Tổng thống Richard Nixon và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara, cũng không viết khác:

- “Cuộc khủng hoảng Phật giáo leo thang một cách bi thảm vào ngày 21-8 khi Diệm gửi các đơn vị Lực lượng Đặc biệt của ông ta đi đột kích chùa chiền vào giữa trung tâm của cuộc tranh đấu của Phật tử” (Richard Nixon)(20).

- “Thình lình, ngày 21-8, chính phủ thẳng tay đàn áp. Với sự chấp thuận của Diệm, Nhu ra lệnh cho một đơn vị quân sự tinh nhuệ đột kích vào chùa chiền trong những giờ đầu ngày. Họ phá đổ các cánh cửa mà người ta dùng để chặn họ vào và đối xử thô bạo với các nhà sư chống cự lại họ. Hàng trăm người bị tống vào nhà tù” (Robert McNamara)(21).

Ngày 21-8, Bộ Ngoại giao Mỹ đã gửi cho Tòa đại sứ ở Sài Gòn bức điện số 226/449: “Căn cứ trên thông tin từ Sài Gòn, dường như Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã tiến hành những biện pháp đàn áp nghiêm trọng chống lại các vị lãnh tụ Phật giáo Việt Nam. Hành động đó thể hiện một sự vi phạm trực tiếp của Chính phủ Việt Nam đối với những cam kết theo đó họ theo đuổi chính sách hòa giải với Phật tử. Hoa Kỳ lấy làm tiếc về những hành động đàn áp kiểu đó”(22).

Tuy nhiên, trong cuốn Khi đồng minh nhảy vào, Nguyễn Tiến Hưng tường thuật hoàn toàn khác về sự kiện mà ông gọi là “Biến cố chùa Xá Lợi”: “Đêm ngày 21-8, chỉ khoảnh khắc sau khi kim đồng hồ ở chợ Bến Thành chỉ 12 giờ, một đám đông tới 20.000 người biểu tình chung quanh chùa Xá Lợi. Nhiều người tham gia biểu tình kêu gọi lật đổ chính phủ” (tr.436).

Tác giả hoàn toàn không nói tới các cuộc tấn công vào chùa Xá Lợi và những ngôi chùa lớn khác trên toàn miền Nam. Ngược lại, ông ngụy tạo “cuộc biểu tình của 20.000 người kêu gọi lật đổ chính phủ”, điều này hoàn toàn không được bất cứ nhà nghiên cứu nào đề cập tới vì sự kiện này không có thật.

Điều ngụy tạo của Nguyễn Tiến Hưng có nhiều điểm phi lý:

- Chùa Xá Lợi nằm ở ngã ba của hai con đường nhỏ Bà Huyện Thanh Quan và Lê Văn Thạnh (nay là Sư Thiện Chiếu), không đủ chỗ cho 20.000 người tụ họp.

- Biểu tình là hành động “để bày tỏ ý chí, nguyện vọng và biểu dương lực lượng chung”(23), do đó không ai dại gì đi biểu tình vào lúc nửa đêm cả!

Lờ đi việc đột kích chùa chiền, bắt bớ tăng ni và bịa đặt cuộc “biểu tình vào nửa đêm”, TS Nguyễn Tiến Hưng không phải không có dụng ý: ông vừa che đậy tội lỗi của “cụ Ngô”, vừa hợp lý hóa việc tăng ni và Phật tử bị đàn áp thô bạo: đi biểu tình, kêu gọi lật đổ chính phủ trong giờ thiết quân luật thì bị đánh đập và tống vào nhà tù là chuyện đương nhiên!

***

Nhà hùng biện La Mã cổ đại Marcus Tullius Cicero (106-43 TCN) đã viết trong tác phẩm De oratore: “Ai mà không biết rằng luật thứ nhất mà nhà viết sử phải tuân theo là không dám nói điều gì sai sự thật và luật thứ nhì là dám nói tất cả những gì có thật, tránh bị nghi ngờ là đã thiên vị, đã ưu ái hay đã thù ghét? Đó là cơ sở của một nền sử học tốt, như không ai không biết (Nam quis nescit primam esse historiae legem, ne quid falsi dicere audeat? deinde ne quid veri non audeat? ne quae suspicio gratiae sit in scribendo? ne quae simultatis? Haec scilicet fundamenta nota sunt omnibus - De Oratore, liber II: 15)(24).

Dù ở đâu và ở thời nào, trung thực vẫn là đức tính hàng đầu của người viết sử. Nếu một người để cho sự ưu ái bên này, thù ghét bên kia làm mất đi tính khách quan và sự tôn trọng chân lý, chắc chắn người ấy sẽ vẽ lại bức tranh quá khứ không chính xác, cung cấp cho người đọc - nhất là người đọc trẻ tuổi - những kiến thức lịch sử bị bóp méo, sai sự thật. Điều đó thật vô cùng nguy hại.

Viết sử mà như thế chẳng khác gì giết sử.

 

_____

(1) Richard Nixon, No More Vietnams, NXB Avon, New York, 1985, tr.47, 63.

(2) Arthur M. Schlesinger, Jr., A Thousand Days: John F. Kennedy in the White House, NXB Fawcett, New York, 1967, tr.900.

(3) Trích dẫn bởi Robert S. McNamara, In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam, NXB Times Books, New York, 1995, tr.75.

(4) Quốc Oai, Phật giáo tranh đấu, NXB Tân Sanh, Sài Gòn, 1964.

(5) Stanley Karnow, Vietnam - A History, NXB Penguin Books, New York, 1987, tr.279.

(6) Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled, NXB Frederick A Praeger, New York, 1967, tập II, tr.993.

(7) Seth Jacobs, Cold War Mandarin, NXB Rowman & Littlefield, New York, 2006, tr.143.

(8) Howard Jones, Death of a Generation, NXB Oxford University Press.

(9) Arthur M. Schlesinger, Jr., sđd, tr.900.

(10) John M. Newman, JFK and Vietnam, NXB Warner Books, New York, 1992, tr.332.

(11) John Prados, Vietnam - The History of an Unwinnable War, 1945-1975, NXB University Press of Kansas, 2009, tr.76.

(12) Hedrick Smith, “The Overthrow of Ngo Dinh Diem: May - November, 1963” trong The Pentagon Papers as published by The New York Times, NXB Bantam Books, New York, 1971, tr.165.

(13) Stanley Karnow, sđd, tr.285.

(14) Thomas D. Boettcher, Vietnam - The Valor and the Sorrow, NXB Little, Brown and Company, Boston, 1985, tr.193.

(15) Hedrick Smith, sđd, tr.166.

(16) George C. Herring, America’s Longest War, NXB McGraw - Hill, New York, 1996, tr.107.

(17) William J. Rust, Kennedy in Vietnam, NXB Da Capo Press, New York, 1985, tr.107.

(18) Seth Jacobs, sđd, tr.152-153.

(19) Howard Jones, sđd, tr.297.

(20) Richard Nixon, sđd, tr.67.

(21) Robert McNamara, sđd, tr.51.

(22) John M. Newman, sđd, tr.339.

(23) Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển ngôn ngữ xuất bản, Hà Nội, 1992, tr.80.

(24) M. Andrieux (người dịch), Oeuvres complètes de Cicéron, NXB Panckoucke, Paris, 1830, tr.280-281.

 

 

Tiến sĩ sử học PHAN VĂN HOÀNG