…Gọi Nguyên Hồng là nhà văn của những người cùng khổ tưởng không ai trong số các nhà văn hiện đại của ta thích hợp hơn, xứng đáng hơn. Bởi số phận của họ từng được nhà văn theo đuổi suốt cả một đời viết, kể từ cuốn sách đầu tay Bỉ vỏ - năm 1938, đến bộ tiểu thuyết đồ sộ cuối đời là Cửa biển, 4 tập, trên 2.000 trang, lần lượt ra mắt bạn đọc trong khoảng 15 năm, kể từ năm 1961 ra mắt tập I có tên Sóng gầm, đến năm 1976 với tập cuối: Khi đứa con ra đời. Đây là bộ tiểu thuyết có lẽ là đồ sộ nhất trong văn học Việt Nam hiện đại tính cho đến khi Nguyên Hồng qua đời. Bộ sách là tổng hợp toàn bộ kinh nghiệm sống của ông, là sự trải rộng và đúc kết mọi mặt vốn sống của ông về Hải Phòng lầm than và hướng tới cách mạng, trong đó không có nhân vật nào ông không gửi gắm một niềm yêu ghét được đẩy đến độ tận cùng.
Nói đến một sự hóa thân triệt để của nhà văn vào thế giới nhân vật, tôi nghĩ cũng không ai hơn được Nguyên Hồng. Sống với những khổ đau của nhân vật đến có thể luôn luôn, lúc nào cũng có thể rưng rưng mà khóc vì họ, băn khoăn đến hốt hoảng vì họ, không ăn ngủ được vì họ, như một người mẹ mang thai, có lẽ chỉ riêng Nguyên Hồng mới có...
Trong hình dung của tôi, Nguyên Hồng là người mà nỗi đam mê sáng tác là triệt để đến một trăm phần trăm, là không có đam mê nào khác chen vào được. Chỉ có viết và viết. Viết từ trẻ cho đến già. Viết cả trong nhà tù và viết trong cái đói thường trực. Tựa như dốc cạn cuộc đời ra mà viết. Tựa như vắt kiệt mình ra mà viết. Viết với tất cả tín niệm thiêng liêng, cao cả của nghề. Không viết không sống nổi. Không viết không có gì minh chứng cho sự hiện diện, sự tồn tại của bản thân mình trong đời. Chỉ ngừng viết khi bất ngờ ngã xuống trên vườn nhà ở ấp Cầu Đen, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang, do chuyển từ động thái viết sang động thái lao động chân tay, để trát lại bức tường đất của gian bếp đã long lở. Có một lúc dường như ông có thưa viết, ấy là buổi đầu kháng chiến chống Pháp, khi nhà văn từ Hải Phòng chuyển về Bắc Giang... Nhưng rồi từ Sóng gầm, khi chuyển được vào mạch viết quen thuộc thì quả khó có gì ngăn nổi nhà văn rời quản bút, rời tập giấy, rời chiếc chõng tre và rời cái cặp da căng phồng bản thảo luôn luôn ở bên mình, trong tất cả các chuyến đi trên chiếc xe đạp mini Liên Xô nhỏ con từ Tân Yên về Hà Nội và ngược lại. Một hình ảnh trung thực và sống động về Nguyên Hồng là hình ảnh nhà văn cùng chiếc cặp da to phồng trên chiếc xe mini Liên Xô cũ kỹ; về sau còn có thêm bộ râu đen xum xuê một cách bất thường dưới cằm, ở tuổi ngoài 50, trên khuôn mặt đăm đăm mà phúc hậu dường như lúc nào cũng sẵn sàng để rưng rưng nước mắt. Nguyên Hồng - người rất dễ mủi lòng, mỗi lúc phát biểu thường hay dừng lại vài phút để xin cử tọa được khóc, đó là chuyện hẳn đã nhiều người biết. Nhưng còn bộ râu? Vì sao lại sớm để râu ở tuổi 50 thì tôi thấy phải nhờ vào Tô Hoài để nói rõ là, vào thời điểm ấy, những năm 1970, việc kiếm cho ra dăm lưỡi dao cạo là khó, bởi nó là thứ hàng phân phối không phải lúc nào cũng có, mà Nguyên Hồng thì lâu lâu mới có dịp về Hà Nội, hằng tháng râu không có cái để cạo, vậy thì để râu là cách tốt nhất.
Dừng lại một chút ở hình ảnh Nguyên Hồng với chiếc xe mini Liên Xô nhỏ con, cùng cặp bản thảo to phồng và bao thứ lỉnh kỉnh trong hành trang của ông mỗi lúc từ Tân Yên về Hà Nội hoặc từ Hà Nội trở về Tân Yên trên quãng đường dài ngót 80km với nhiều trạm dừng quen thuộc. Nhà văn tuổi ngoài 50 còn khỏe đi, thế nhưng cũng đã có lúc bất thường do mệt hoặc buồn ngủ, không kịp chờ đến trạm nghỉ, ông đành dừng xe giữa đường, tựa xe vào gốc cây bên đường, để ngả lưng và ngủ thiếp giữa dòng người xe qua lại. Có lần do phải chuyển sang bên trái đường mới có gốc cây nên khi bừng tỉnh dậy lên xe đạp thẳng, ông bỗng lạc hướng về, cho đến khi thấy hiện ra các nhịp cầu Long Biên nhấp nhô ở phía xa mới biết là mình đang trên đường trở lại Hà Nội!
Cũng cần nói thêm, ở tuổi ngoài 50, Nguyên Hồng đã xin nghỉ hưu, sau khi cả nhà, vợ chồng con cái cùng dắt díu nhau kéo từ Hà Nội trở lại ấp Cầu Đen, Tân Yên. Ông chán cảnh căng thẳng nơi thành phố một phần, nhưng cái chính là ông cần tập trung tâm sức, thời gian cho việc hoàn thành bộ Cửa biển, cuốn sách về Hải Phòng, quê hương thứ nhất của ông, về món nợ cho cả một đời văn của ông. Rồi, sau khi xong Cửa biển lại đến với ông món nợ thứ hai là Bắc Giang. Ông lại bắt tay ngay vào bộ sách mới - Núi rừng Yên Thế mà tập I có tên Thù nhà nợ nước đã sớm được Hội Văn nghệ Hà Bắc cho in trên một thứ giấy quen thuộc lúc đó, vừa đen thui vừa bở, khiến cho chỉ cần ngấm vào ít giọt nước là cả trang sách cứ tự nhiên mà tơi mủn ra.
Cuốn tiểu thuyết chưa kịp hoàn thành vào năm 1982 là năm nhà văn qua đời.
Đọc Nguyên Hồng tôi lại có dịp chiêm nghiệm một điều tưởng là mới mà hóa ra không khó hiểu. Đó là, dẫu trong khổ ải, trong cay cực, trong bất hạnh mà con người vẫn không để tắt, thậm chí còn có khả năng thắp sáng những gì thánh thiện ở trong mình. Toàn bộ thế giới nhân vật Nguyên Hồng cũng tựa như người khai sinh ra nó là Nguyên Hồng đều phải chịu cảnh sống dưới đáy, nhưng ở họ không ai không mang một mầm giống nhân bản để tuông ra, để ngoi lên. Con người đòi được sống với bản chất người, với tính cách người, thậm chí khi bị dồn vào chân tường, khi bị tha hóa, bị vật hóa đến cùng độ, họ vẫn cứ là người, vẫn đầy khả năng nhân hóa - đó chính là kết luận lạc quan tôi luôn luôn được thấy trên từng sáng tác của cả một đời văn ngót 50 năm của ông.
Ở nhận xét này tôi thấy Nguyên Hồng cũng gần gũi với Maxim Gorky - người có chính tên là Cay đắng.
Đời Nguyên Hồng là một đời vất vả; như để bù lại, cái chết lại đến với ông một cách nhẹ nhàng. Ông nằm xuống, trong sự thay đổi động tác, như là để nghỉ ngơi, và như là để ngủ. Ông chưa có chuẩn bị gì cho một cuộc ra đi vĩnh viễn ở tuổi 64.
Nhớ đến Nguyên Hồng tôi nghĩ đến một người lao động văn chương trong nghĩa khổ hạnh và thiêng liêng nhất.
***
Khác với Ngô Tất Tố, Nam Cao là những người am hiểu sâu về đời sống nông thôn, dựng được những hình ảnh đầy đặn, và nắm bắt được những nét sống linh hoạt về phong tục, tập quán, về tâm lý, tính cách người nông dân, Nguyên Hồng sở trường về một mảng đời khác - lớp dân nghèo thành thị. Từ Bỉ vỏ (1938), Những ngày thơ ấu (1941) đến hàng loạt thư từ, truyện ngắn, truyện dài... viết dồn trong dăm sáu năm tiền Cách mạng thấy nổi lên hình ảnh lớp dân nghèo này trong tất cả tình cảnh tối tăm, bi đát của họ. Trên bức tranh hiện thực một thời không quên được ấy của lịch sử dân tộc, nền văn học hiện đại Việt Nam đã có thể ghi công cho Nguyên Hồng là người đã viết, không phải chỉ bằng sự quan sát chăm chú hoặc thông minh của đôi mắt, mà bằng tất cả sự đồng cảm, chia sẻ, thấm thía tự bề sâu tấm lòng trước mọi nỗi buồn lo, xót đau, quằn quại của những lớp người dưới đáy xã hội.
Có thể nói đến một khả năng, hoặc bản năng riêng hiếm có ở ngòi bút Nguyên Hồng để tạo dựng một thứ không khí riêng, một thứ âm thanh và màu sắc riêng cho những cảnh đời luôn luôn trở đi trở lại trên các trang viết của ông. Đó là những ngõ, những hẻm, những xó xỉnh, những chỗ chen lách, chui rúc, nơi kiếm sống, sinh hoạt, ăn ngủ, nghỉ ngơi, làm lụng, chờ đợi, gặp gỡ, hẹn hò, hy vọng của những người nghèo; nơi làm thành bộ mặt dưới đáy của sinh hoạt thành thị; nơi như một sự tù đọng, lại như một chỗ xoáy hút mọi thứ rác bẩn; nơi con người bị tước hết lịch sử để chỉ còn lại một cái tên riêng xấu xí, trần trụi trong sự tồn tại mong manh của cuộc sống từng ngày.
Nhưng bị tước hết lịch sử, con người vẫn có một lịch sử. Mỗi người trong họ như Tám Bính, Chín Huyền, Năm Sài Gòn, cùng hàng chục, hàng trăm nhân vật khác của ông, những Bố Nấu, Gái Đen... đều có lịch sử của mình, gồm một phần đời gắn với nông thôn. Nhưng sự bóc lột tô tức, sự bần cùng hóa đến triệt để diễn ra ở nông thôn, cùng biết bao thành kiến cổ hủ đã dồn tất cả họ vào “vực thẳm” - như một tên truyện của Nguyên Hồng; và con đường thoát của họ là bật ra thành thị. Nguyên Hồng không đi sâu vào quá trình có tính quy luật diễn ra sau “lũy tre xanh” như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao... Ông chỉ đón lấy cái chặng đường họ từ quê ra tỉnh. Ông chờ họ ở một bến xe, một ngã ba sông... Ông quan sát với biết bao hồi hộp, lo lắng trước vẻ ngơ ngác, sợ sệt của họ nơi một vườn hoa có tên “đưa người”, nơi một ngách phố, rồi mất hút trong quầng sáng điện, hoặc biến đi sau một ngõ hẻm... Để rồi, chính từ giờ phút đó, đời sống thành thị sẽ cuốn họ vào guồng quay của nó, hoặc tàn nhẫn bóp chết, hoặc làm biến dạng hình hài và số phận họ. Để rồi, trên sự chen lấn, tranh giành, tước đoạt đầy nhốn nháo và hỗn loạn này mà làm xuất hiện những “bỉ vỏ” như Tám Bính, những “anh chị” như Năm Sài Gòn, Ba Bay, những gái điếm, ăn xin đủ dạng, tóm lại, cả một thế giới người bị tước đi quyền sống, nên đến lượt mình lại phải dùng sự tước đoạt để giành lại phần sống lay lắt cho mình.
Tất cả sáng tác của Nguyên Hồng là nhằm vào câu trả lời: Họ đã sống ra sao? Sự sống ấy, nếu cũng được gọi là sự sống, quả đã ngồn ngộn trên các trang viết của ông. Sống trong sự cùng cực, bị vắt kiệt. Sống trong sự lo âu, khắc khoải, được hôm nay không biết ngày mai. Sống trong cái đói thường trực. Và sống trong sự dằn vặt, day dứt, hành hạ, làm khổ lẫn nhau... Nhưng cũng là sống trong sự nương tựa, cưu mang, đùm bọc, hy sinh cho nhau. Có thể nói, chung quanh cái chuyện sống hết sức sinh tử đó, hoặc có thể nói hẹp hơn, chung quanh việc vật lộn cho có miếng ăn hằng ngày đó, Nguyên Hồng đã có thể khai triển mà cho thấy biết bao là phong phú, là chồng chất và dồn nén cả một thế giới vừa đầy mâu thuẫn, ngang trái vừa giàu vẻ đẹp và chất thơ trong các cảnh đời và tình người!
Nhưng nếu như, một mặt guồng quay khắc nghiệt của xã hội đã mặc sức cuốn cả cái đám nhân quần ấy vào bánh xe của nó để làm cho họ đầu trần thân trụi, gọt phẳng mọi bản sắc, nhân cách, thủ tiêu mọi sinh thú của đời sống; và mặt khác, phía Nguyên Hồng như muốn ghì giữ lại để cho ta nhận diện từng khuôn mặt họ, và chỉ cho ta xem niềm ham sống không tắt ở họ, thậm chí có lúc như muốn cháy bùng lên, đồng thời với những mặt sáng sủa trong con người họ, thì - một câu hỏi lớn vẫn không thôi ám ảnh chúng ta: cuộc sống này, số phận những con người này sẽ ra sao? Xu thế chung, khách quan và tất yếu của cuộc đời sẽ là thế nào? Câu hỏi đó quả không dễ trả lời trong hoàn cảnh oi ngột tù đọng, luôn bị bủa vây, đe dọa của chế độ thực dân và trong xã hội thuộc địa. Câu hỏi đó chỉ có thể được sáng tỏ và trở thành một sự tỏa sáng trong sáng tác Nguyên Hồng ít lâu sau, khi thời cơ cách mạng dồn đến, khi cả một dân tộc đang rùng rùng chuyển động đến cao trào Tổng khởi nghĩa, khi ông trở thành thành viên tích cực của Hội Văn hóa cứu quốc và đón nhận ánh sáng từ Đề cương về văn hóa Việt Nam của Đảng. Đó là những trang Địa ngục (1945) và Lò lửa (1946) đặt bên nhau như là hai mặt sáng - tối, hai mặt phải - trái, hai phía trước - sau của cùng một sự vật, điều mà trước đây, Nguyên Hồng mới chỉ có thể tô đậm một mặt, hoặc có lúc cho thấy cả hai, nhưng trong một sự gắn nối còn mờ nhạt hoặc khập khiễng.
Đọc Nguyên Hồng không thể không dừng lại trên bộ tiểu thuyết lớn Cửa biển mà nhà văn dường như đã dốc vào đấy gần như toàn bộ vốn liếng, tâm huyết của cả một đời cầm bút của mình. Nếu tính khoảng cách giữa tập I có tên Sóng gầm (1961), và tập IV có tên Khi đứa con ra đời (1976) thì chỉ mới trọn 15 năm. Nhưng để chuẩn bị cho nó, từ những thai nghén đầu tiên trên bản thảo có tên Xóm Cháy thì còn phải tính ngược về trước thêm hai thập niên nữa.
Ba mươi lăm năm nung nấu cho những gì đã được trang trải và dồn nén ở đây - nơi bộ sách thuộc loại dài nhất trong văn học hiện đại Việt Nam, tính cho đến khi Nguyên Hồng qua đời. Không phải không có sự khó nhọc cho chúng ta mỗi khi phải đọc liền một thôi hàng trăm trang, khi phải đi suốt một mạch cuộc hành trình dài qua bốn tập Cửa biển. Nhưng rõ ràng nếu thiếu đi bộ sách đó thì sự hình dung về xã hội cũ ở chúng ta hôm nay, và nhiều thế hệ mai sau sẽ thiếu hụt đi không nhỏ. Trước hết, đó là một mảng tối, toát lên từ bao cảnh đời cơ cực, bao kiếp sống lầm than, bao số phận bị chà đạp... Nhưng là một mảng tối không đứng im mà luôn chuyển động. Nếu Sóng gầm (1961), Cơn bão đã đến (1968), Thời kỳ đen tối (1973), như tên truyện gợi ra là những diễn biến, phát triển và dồn nén của một cuộc sống đang chuyển dần vào đêm sâu, thì với Khi đứa con ra đời (1976) tác giả lại rọi ánh sáng vào cái hiện thực vĩ đại và thiêng liêng của dân tộc là cách mạng, nó là sự giải tỏa, là xu thế tất yếu của cuộc sống, từ đau thương đi tới quật khởi, được thu nhỏ trong hình ảnh một vùng Cửa biển: Hải Phòng.
Vẫn quen thuộc với chúng ta như trong tiếp xúc ban đầu với Nguyên Hồng ở tuổi thành niên, những nỗi thống khổ của lớp dân nghèo, của người lao động, thuộc mọi tầng lớp đang bị dồn vào đêm thẳm, vào vực thẳm tiền Cách mạng... Nhưng cuộc sống với những nỗi thống khổ ghê gớm đó thực ra không hoàn toàn là một “địa ngục” và con người lao động dẫu bị xô đẩy đến các “vực thẳm” vẫn không ngừng bằng mọi cách tìm lối để ngoi ra. Nếu trước đây trong sáng tác của Nguyên Hồng, những người nghèo khổ thường bị dồn vào một cảnh ngộ bi thảm, phải chết rục chết mòn nơi đầu đường xó chợ, hoặc cùng quẫn quá mà lao vào một kiếp sống lưu manh như một sự chống trả lại trật tự xã hội, thì giờ đây, nhà văn đã có thể cho thấy, bên cạnh thực trạng ấy, một sự thật khác, cơ bản và có ý nghĩa. Đó là hiện thực con người hướng về ánh sáng, là sự nảy nở ý thức cách mạng trong lòng quần chúng cực khổ.
Cái mới của bộ Cửa biển chính là ở những cố gắng đó của nhà văn nhằm khẳng định sự phát triển cách mạng của hiện thực. Cũng chính ở đây thể hiện sự đổi mới trong phương pháp nghệ thuật ở Nguyên Hồng, dẫu về bút pháp tiểu thuyết, bộ truyện vẫn còn lắm trang nặng nề, rậm rạp.
***
Một phong cách giàu cảm xúc; một tình thương vừa mênh mông vừa thấm thía đối với nhiều lớp người lao khổ; một bức tranh đời trước Cách mạng tháng Tám với bao nỗi xót xa, cay đắng của con người; những tính cách nhân vật như muốn cưỡng lại các số phận; một khát vọng hướng về cái thiện, và do vậy mà hướng về cách mạng như một lẽ phải tự nhiên... Có thể xem tất cả đó là những dấu ấn đặc sắc mà Nguyên Hồng đã để lại cho văn học Việt Nam thế kỷ 20, sau ngót 50 năm sáng tác của nhà văn.
Tháng 7-2018