HV139 - Nhắm mắt chờ chồng

Chúng tôi đến Bát Tràng (huyện Gia Lâm, Hà Nội) hôm nay không phải để sắm đồ gốm sứ, mà thăm vợ của một liệt sĩ đồng đội trung đoàn: liệt sĩ Nguyễn Khắc Tơ.

Khi những chàng trai Bát Tràng đưa được hài cốt anh từ Quảng Trị trở về cho chị thì mọi sự đều đã muộn. Sự xót thương, chờ đợi đã làm đôi mắt chị sụp xuống vĩnh viễn. Các bệnh viện đều đã hết cách điều trị.

Bước vào nhà, chúng tôi vội giấu cuốn lịch năm mới của Sư đoàn Quân tiên phong đi chỗ khác, không cho chị biết. Trên bốn bức tường, không treo một thứ tranh ảnh nào, chị chỉ treo duy nhất tấm lịch nhỏ năm 1972, trong đó có đánh dấu ngày anh hy sinh. Chị bị mù rồi, biếu chị lịch thì cuốn lịch sư đoàn có đẹp đến mấy cũng là một thứ quà vô duyên. Trên bàn thờ anh, bát hương to hơn so với kích thước bàn thờ. Đó là bát hương tự tay chị làm cho anh. Bát hương to, cũng là hợp tình, hợp lý. Hằng ngày chị sờ tìm, thắp hương cho anh dễ hơn.

Chị không ở một mình mà ở cùng con cháu. Chị sống bằng tiền trợ cấp vợ liệt sĩ mỗi tháng 1,4 triệu đồng. Con cháu thương mẹ thương bà, đã cố gắng tạo một nội thất thật thông thoáng, giản dị, trang nhã. Nhưng tình thương ấy vô tình đã tạo ra một không gian có phần lạnh lẽo, trống trải, luôn gợi nhớ người đã khuất.

Chị ngồi bên những người đồng đội già của chồng, nhưng vẫn cố gắng khép vai, thu mình, không để động chạm vào ai. Chúng tôi hiểu đó không phải là cử chỉ giữ gìn của người mù, mà là sự ý tứ, bẽn lẽn y nguyên thời con gái mới về nhà chồng, thứ phản xạ đàn bà từ nửa cuối thế kỷ trước. Chị cười, run run tròng mắt:

- Các anh về đông không?…

- Không đông đâu chị. Chúng tôi đại diện cho trung đoàn cũ của anh Tơ, chỉ có 5 người thôi.

- Cậu không hiểu ý chị hỏi rồi - một người lên tiếng cải chính - Chị ạ, hy sinh cũng nhiều mà sống trở về cũng nhiều.

Hình như chị hỏi câu ấy là vì chưa chấp nhận một sự phi lý: sống về đông thế mà lại không có chồng mình. Nhìn chị động đậy khóe mắt, chúng tôi se lòng, hình dung dáng chị 50 năm trước. Chẳng lẽ người đàn bà 70 tuổi trước mắt chúng tôi đây chính là cô gái mới cưới mấy tháng đã bí mật giấu nhà chồng, đạp xe mấy chục cây số tìm chồng, trước khi xe đơn vị chúng tôi lăn bánh? Ngày ấy, trung đội trưởng Nguyễn Khắc Tơ của chúng tôi từ chối, nhường suất nghỉ phép “tranh thủ” cho một anh lính sinh viên, trai tơ, chưa vợ. Anh từ chối thăm nhà, nhường suất nghỉ “ưu tiên mới cưới” cho người khác bằng một cái lý rất dễ thông cảm. Anh bảo, kinh nghiệm cho thấy, thằng nào trước khi đi B mà nằm với gái là vào chiến trường dễ chết lắm…

Nhưng anh không “tranh thủ” thì chị tranh thủ. Nghe phong thanh sư đoàn chúng tôi đang hội quân, thành lập một trung đoàn mới, trung đoàn hỏa lực E58 cho chiến dịch QT, chị nhớ lại những chuyện anh kể mà đoán ra tọa độ của anh. Chị phóng xe về phía Hà Đông, nơi lúc đó đang thành “thủ đô của lính”. Chị đi theo dự cảm, đi bằng giác quan của tình yêu và nỗi khát khao của người vợ trẻ khát chồng. Cầu được ước thấy, chị đã tìm ra anh trong tiếng hò kéo pháo và tiếng xe ô tô khởi động lên đường. Giời thương anh chị, đã cho anh một góc tam quan chùa Trầm hay một vạt ruộng hoang nào đó làm giường cưới? Điều đó không rõ. Chỉ biết Giời thương, đã ban cho anh chị một mầm sống. Nhưng vì chuyến đi bí mật của chị mà cái mầm sống ấy bị nhà chồng nghi kỵ bao năm.

Chúng tôi ra nghĩa trang Bát Tràng thắp hương viếng anh. Con trai anh (năm nay đã quá 40 rồi, lúc trẻ giống bố như lột, nay càng già càng khác bố) dẫn chúng tôi đi. Chàng rất hãnh diện chào hỏi, khoe với hàng xóm dọc đường: “Các bác ở đơn vị bố cháu về thăm mẹ cháu và ra viếng bố cháu đây”.

Không nói ra, nhưng khi thắp hương, con trai anh và chúng tôi đều biết phía dưới lòng mộ không có hài cốt nào cả. Sau bao lần tìm kiếm, con trai anh đành đem về một vốc cát sông Thạch Hãn, Quảng Trị. Con trai nói dối mẹ, rồi dựng mộ cha trong Nghĩa trang liệt sĩ Bát Tràng. Chàng trai kết thúc công trình tìm cha vì nghe được câu chuyện của chúng tôi kể thật.

... Bấy giờ, tức là đến tháng 9 năm 1972, trung đội trưởng Nguyễn Khắc Tơ đã là một chỉ huy trinh sát nổi tiếng can trường nhưng cũng rất hào hoa. Anh là nhà thơ đáng yêu của tiểu đoàn. Rất nhiều chiến sĩ chép thơ anh. Bài thơ Đường ra trn của anh đã được in trên tạp chí Văn ngh Quân đi và được nhạc sĩ Thanh Phúc “chuyển thể” thành ca khúc Pháo ta n vang tri Khe Sanh. Ca khúc hào hùng ấy đã được phát trên đài Tiếng nói Việt Nam suốt những năm chiến tranh. Mỗi lần nghe anh đọc thơ, chúng tôi thường hình dung ra chàng sinh viên Văn khoa N.K.T. bước vào cổng trường đại học, một ngày nào đó khi đất nước hòa bình. Nhưng cái mơ ước ấy đã trở nên rất mong manh khi chúng tôi nhận tập thơ anh gửi lại, nhờ giữ hộ trước khi anh xuất kích. Từ cứ điểm 132 khu Động Ông Do, anh được cử đi đánh phối thuộc với sư đoàn bạn. Trước khi xuất phát, tiểu đoàn trưởng trao cho anh khẩu AK báng gấp của Đức, mới được quân khí cấp phát. Nhìn khẩu AK sáng bóng chưa hết hơi dầu mỡ, từ hậu phương miền Bắc gửi vào, anh rất thích. Nhưng cũng giống như lần ưu tiên về phép, anh lại từ chối. Anh bảo, khẩu AK báng gấp anh dùng lâu nay tuy cũ nhưng quen dùng rồi, không nỡ chia tay. Bắn khẩu súng mới, nhỡ chết thì phí. “Bọn Sư 312 nó thấy súng ngon, sinh lòng tham, không trả lại thì thằng trung đội trưởng mới đề bạt thế chỗ anh sẽ không được thừa kế…” - anh cười, nửa đùa nửa thật. Mấy tuần sau, chúng tôi biết câu anh nói đùa, “nói gở” đã thành sự thật. Sư đoàn 312 báo lại: đài quan sát của anh bị quân Ngụy phát hiện, vây bắt. Anh đã chiến đấu bằng khẩu AK cũ, bắn đến viên đạn cuối cùng. Các đồng đội Sư đoàn 312 đã tìm ra xác, chôn cất anh cùng cả khẩu AK, đục một thùng lương khô khắc tên anh. Nhưng ngay ngày hôm sau, không rõ có phải nấm mộ đắp hơi cao, địch phát hiện ra, hay chỉ là ngẫu nhiên, pháo địch đã bắn tung mộ, đất cát lật lên lật xuống, không còn dấu vết, kể cả tấm tôn. Sau mấy tháng, chỗ anh nằm đã bị bom pháo đào bới, cắt đôi cả quả đồi.

Liệt sĩ Nguyễn Khắc Tơ đã hy sinh hai lần, và nói như Chế Lan Viên - nhà thơ mà anh mến mộ: “chết ri còn hy sinh”. Anh hy sinh mà không biết là mình sẽ có con trai. Lá thư chị báo tin vui có thai đến chiến trường khi anh đã xách AK vào trận. Tiểu đoàn chúng tôi chờ rất lâu mới dám bóc lá thư chị viết. Cả hai sư đoàn (F308 và F312) đều báo tử, tưởng như anh chết hai lần.

… Từ nghĩa trang về nhà chị, chúng tôi ghé thăm đình làng Bát Tràng. Tưởng rằng ra khỏi nghĩa trang, thăm đình làng là một cách khuây khỏa nỗi nhớ thương, là bước sang một không gian văn hóa mới, nhẹ nhàng. Nhưng dấu tích người xưa vẫn không thôi vương vấn. Chàng trai con liệt sĩ chỉ cho chúng tôi một cỗ kiệu sơn son thếp vàng đang đặt bên ngai thờ thần Thành hoàng. Chàng trai bâng khuâng: “Các bác đi cùng đợt bố cháu, sống về kể: Bố mày ngày xưa học giỏi nhưng hư lắm, toàn trốn việc nhà, tìm chỗ vắng đọc sách. Bố mày hay chui vào cái kiệu này đọc cho khỏi lộ. Ngày xưa, cái kiệu chỉ che bằng mành mành, nhìn vào trong thông thống. Bây giờ sơn lại, tân trang mới có gấm thêu, kim tuyến đẹp thế chứ. Chúng tao thấy bố mày ngồi đọc im phăng phắc như tượng, nhiều hôm trông thấy giật mình bỏ chạy, chết khiếp. Vậy mà bố mày cứ chui vào ngồi, biến thành thư viện đấy. Ông bà mày cứ cầm gậy ra đình, hỏi thăm ông từ mấy câu to tiếng một tí thôi là thể nào cũng thấy “thằng giặc” cầm sách chui vọt ra khỏi kiệu, tránh đòn. Học hết lớp 10, bố mày khai tăng tuổi viết đơn tình nguyện để khỏi phải ngồi kiệu đấy”.

Vào nhà, chúng tôi đã thấy hai mâm cơm soạn trên sàn nhà chờ sẵn. Chị bị mù nhưng chỉ gọi một câu là đồ ăn dịch vụ tới nhà. Có mấy ông cựu chiến binh nghe tin đến thăm cũng vội đổ hai chai Lúa Mới vào hai cái bi đông lính cũ sang ngồi “làm vài chén cho vui”.

Chị ngồi bên, không ăn, chỉ ngồi… nghe chúng tôi ăn. Nghe tiếng bát đũa lách cách và tiếng chào mời nâng chén râm ran lâu quá, chị lại buồn. Đứa cháu trai đích tôn của anh chị cầm tập “thơ ông nội” trên bàn thờ đặt vào lòng tay bà. Có cháu ở bên, chị vui lên. Cháu trai đã thừa hưởng gien ông, học giỏi, đã từng dự thi học sinh giỏi Toán toàn quốc trong đội tuyển Hà Nội, và bây giờ đã là sinh viên Đại học Kinh tế quốc dân. “Lâu lắm rồi nó chẳng đọc thơ ông cho bà nghe. Thơ ông mày dễ hiểu nhưng không dễ thuộc”. Chị nói như buông một lời trách yêu cả hai ông cháu. Cháu ngay bên lòng, còn ông thì ở rất xa. Tôi băn khoăn nhẩm tính: không biết chị mân mê lần giở từng trang thơ đã bao năm rồi. Những dòng thơ đã nhạt màu mực vì vân tay chị, hay thơ anh đã ngấm vào da thịt chị.

Có giọt lệ nhỏ ứa ra từ tròng mắt kín mít. Hình như mấy chục năm nay chị cố tình nhắm lại để nhìn rõ anh hơn. Chị nhắm mắt nhưng nhìn thấy tất cả. Chị biết tất cả. Chị biết con trai lừa chị, đã nói dối là tìm thấy, là đã đem được hài cốt cha về. Có lẽ chị chấp nhận lời nói dối của con cháu, họ hàng và chính quyền, làng xóm… là để chấm dứt sự nhọc nhằn, tốn kém cho mọi người. Chị thừa biết dưới mộ anh chỉ có nắm đất Quảng Trị. Bằng chứng là chị im lặng gật đầu nhưng chỉ ra nghĩa trang viếng anh một đôi lần.

Chị chống gậy tìm đường ra đình làng nhiều hơn ra nghĩa trang. Đặt gậy bên thềm, chị ngồi nghe lá đa rơi, cảm nhận ra linh hồn chồng mình đã tìm về đình làng. Chị biết, trong cỗ kiệu gần đó có trái tim một chàng trai trẻ năm xưa vẫn còn thoi thót đập... Một chàng trai đã không chịu ngồi yên trong cỗ kiệu, chờ ngày hòa bình.

 

MẠC YÊN