Chuyện thứ nhất: Người đánh bạc ở vạn chài Lành Tranh (Huế)
Vào những năm 1951-1952, địch lập một vành đai gồm nhiều đồn bốt và nhiều toán quân tuần tiễu ở vùng ngoại vi Đà Nẵng, hòng ngăn chặn cán bộ ta vào nội thành hoạt động. Nhiều cán bộ ta bị chúng bắt. Lúc ấy, Tỉnh ủy Quảng Nam-Đà Nẵng đưa tôi và anh Bùi Thượng Lương vào hoạt động trong Đà Nẵng. Nhưng để khỏi bị lộ phải tìm cách đưa vào hợp pháp. Chúng tôi được gửi ra tỉnh Thừa Thiên. Ở đây, Tỉnh ủy Thừa Thiên tìm cách làm giấy tờ hợp pháp cho chúng tôi rồi đưa chúng tôi đến ngoại ô thành phố Huế. Người đón chúng tôi là anh Mai Ngọc Y ở vạn chài Lành Tranh trên sông Hương. Anh đưa hai chúng tôi ở trên thuyền của anh, đậu sát bên một đồn Tây, trước Tòa Khâm. Nơi đây, Tây thường hay lên xuống để khám xét và kiếm gái. Thuyền anh đậu sát đồn Tây là gây bất ngờ cho chúng. Anh Y suốt ngày ngồi đánh bạc, chị vợ anh lại làm nghề bán thân. Họ cứ làm việc của họ, nhưng họ thay nhau để bảo vệ hai chúng tôi. Tôi và anh Lương đóng vai là em vợ anh Y, người ở Mỹ Lợi (Phú Lộc). Huyện Phú Lộc gần Quảng Nam nên chúng tôi giả tiếng Huế lai lai cũng dễ. Vì thế, nhiều lần bọn Tây lên thuyền mà chúng tôi không bị lộ.
Ở đây một thời gian chúng tôi được vợ chồng anh chạy xin giấy bọn cảnh sát địch để mua vé máy bay vào Đà Nẵng. Đi máy bay sẽ bảo đảm bí mật hơn đi tàu lửa hay ô tô. Anh Y chạy giấy đến giờ chót chưa xong. Chị vợ liền nói:
- Để tui.
Chẳng biết chị nói gì mà bọn chúng cho giấy ngay. Anh Y mua 3 chiếc vé, cho hai chúng tôi và cho anh đi kèm để bảo vệ chúng tôi. Tới Đà Nẵng, anh đưa chúng tôi vào nhà anh Châu, là bà con của anh. Anh cùng anh Châu chạy vạy xếp tôi vào làm ở khách sạn Morin (nay là khách sạn Bạch Đằng) còn anh Lương làm một thợ ủi. Hằng ngày, tôi đến khách sạn lau vỏ chai rượu để bán cho Tây. Anh Châu thường hỏi han việc làm của tôi. Thấy làm ở khách sạn Morin bất tiện, dễ bị lộ, anh chuyển tôi sang làm thợ chụp hình ở hiệu ảnh Tân Mỹ. Tại đây, cũng qua hai anh, tôi bắt liên lạc được với tổ chức và hoạt động…
Chuyện thứ hai: Những chi tiết bổ sung cho lịch sử Đà Nẵng
Trong nhiều tài liệu lịch sử viết về cuộc đấu tranh chống bắt lính vào những ngày hòa bình đầu tiên của nhân dân Đà Nẵng và Hòa Vang tại đồn Võ Tánh (căn cứ chuyển vận Đà Nẵng) không có những chi tiết này. Tôi xin bổ sung để nói cái tài giỏi của nhân dân nảy sinh trong đấu tranh.
… Vào lúc 9 giờ sáng ngày 1-8-1954, đoàn biểu tình tập trung trước đồn Võ Tánh (nay là trường Trần Phú) là nơi tập trung khá đông số thanh niên bị bắt lính. Trước khí thế sôi sục của quần chúng, kẻ địch lúng túng trong đối phó. Hai chị Phùng Thị Tương và Đặng Thị Trợ tiến vào trước cột cờ, hạ cờ tam tài xuống, kéo cờ đỏ sao vàng lên. Một tên phản động từ trong đồn bắn vào các chị. Chị Tương hy sinh tại chỗ, chị Trợ bị thương nặng. Trước tình hình đó, bà con dùng xích lô chạy khắp thành phố báo tin: “Hòa bình rồi mà lính còn bắn người ở đồn Võ Tánh”. Lập tức mọi tầng lớp nhân dân thành phố Đà Nẵng tràn về đồn. Bọn ngụy ở đây cầu cứu bọn hiến binh Pháp. Để phân hóa kẻ thù, bà con đưa anh em hướng đạo, những người biết tiếng Pháp, đến nói với bọn hiến binh: “Hòa bình rồi, giữa Việt Nam và Pháp không còn đánh nhau nữa, đây là bọn lính của Diệm, các anh đừng tham gia”. Thế là bọn hiến binh Pháp rút đi. Bọn Tây trên sân bay đưa lính vòi rồng đến, bà con ta cũng dùng phương pháp ấy để bắt chúng rút lui. Sau đó, chúng đưa xe chở bọn lính Ma Rốc đến đàn áp. Ta cũng cho người giải thích như vậy và vỗ tay hoan hô lính Pháp và dân Việt Nam sống hòa bình không còn oán hận gì. Bọn Ma Rốc trên xe cũng vỗ tay hoan hô và cho xe chạy luôn. Bà con ta xông vào đồn để giải cứu số thanh niên bị bắt lính. Bọn lính trong đồn sợ quá trốn chui trốn nhủi. Anh Tiềm, một cán bộ của ta mặc đồ lính ngụy để chỉ đạo cũng bị bà con tưởng nhầm là địch xông vào đánh, chúng tôi phải cho người đưa ra.
Bấy giờ, trên sân có hàng trăm chiếc xe, bà con muốn đốt mà không biết cách đốt. Một anh lính Ma Rốc bày cách mở thùng xăng bỏ lửa vào. Thế là hàng trăm chiếc xe bị thiêu rụi…
Chuyện thứ ba: Gia đình bà xã Chai
Vào khoảng năm 1955, có một thời gian tôi sống ở gia đình bà xã Chai. Nhà bà nằm đối diện với bảo tàng Chăm bây giờ. Chồng bà, một cây sâu rượu, cứ tửu vào là chửi bậy chửi bạ, có khi nói bá láp về cách mạng nên bị cơ sở ta diệt. Nhưng anh Thành, con trai bà là cơ sở của ta. Anh đưa tôi về ở trong buồng nhà anh. Mới đến nhà, tôi ngại lắm. Cái ảnh của ông già anh treo trên tường như gườm gườm nhìn xuống. Thấy vậy, bà liền nói:
- Cháu đừng ngại gì. Bác trai mày say rượu ăn nói ẩu tả anh em họ hiểu lầm họ giết, chứ gia đình bác chẳng làm gì hại bên ta đâu. Cháu cứ yên tâm ở đây.
Chuyện thứ tư: Người thanh niên ở Thạc Gián
Gia đình bà Điển Chước ở Thạc Gián, Đà Nẵng là nơi anh em cán bộ hoạt động nội thành thường đến hội họp. Một lần, do sơ suất của vài người nên bị bể cơ sở. Địch bắt người con trai của bà lên phòng nhì tra tấn dã man, nhưng anh không khai báo. Bọn phòng nhì chẳng làm được gì, chúng bày ra một kế:
- Này, - chúng nói với anh - tụi tao thả mày về, mày thấy thằng Quế (bí danh của ông Trương Trọng Cảnh) ở đâu thì chỉ cho tụi tao để lãnh thưởng.
Anh này về, mò mẫm tìm được chỗ tôi làm việc. Anh nói với tôi:
- Bọn phòng nhì bảo tôi chỉ bắt anh để lãnh thưởng đó, anh cố gắng đề phòng. Còn tôi, biết anh ở đây nhưng tôi không chỉ đâu, anh yên tâm.
Chuyện thứ năm: Ai làm gì thì làm, tôi vẫn làm cách mạng
Khu vực Trung Lương (Đò Xu, Đà Nẵng) là vùng căn cứ lõm của ta. Cán bộ hoạt động nội thành được bà con ở đây nuôi giấu bảo vệ suốt trong những năm chiến tranh.
Một lần, có một Thành ủy viên Đà Nẵng của ta bị địch bắt, đã đầu hàng. Hắn dẫn bọn địch đến bắt gia đình bà Chương, nơi đã nuôi hắn. Mọi người trong nhà bị đánh đập tra khảo dã man nhưng trừ việc nhận nuôi hắn, chẳng khai thêm ai khác. Không moi được gì ở mọi người, bọn địch đành thả họ về. Một thời gian sau, tôi được đưa đến ở gia đình bà. Bà vui vẻ nhận lời, nuôi giấu bảo vệ tôi, làm liên lạc cho tôi. Có lần tôi nói đùa với bà:
- Chị cho tôi ở, chị không sợ tôi bị bắt rồi khai báo, địch bắt gia đình chị nữa à?
Bà cười:
- Nếu anh khai, tôi bị bắt, nó tra thì tôi chịu đòn. Ra tù, về nhà tôi lại nuôi giấu cán bộ cách mạng nữa. Ai làm gì thì làm chứ tôi vẫn làm cách mạng đó.
Chuyện thứ sáu: Người theo đạo Tin Lành
Chuyện này anh Phạm Thanh Ba, nguyên Phó chủ tịch tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng, kể cho tôi nghe vì ngày đó anh làm sếp ga…
Có gia đình Bà Kỳ ở gần ga Đà Nẵng, vợ chồng đều theo đạo Tin Lành. Chồng bà lại làm trợ lý cho mục sư người Mỹ cai quản khu vực này. Khu này dạo đó có một thằng rất ác ôn. Ta quyết định trị nó. Một cán bộ của ta được phân công diệt tên ác ôn. Muốn vậy, anh phải bám vào nơi đây để theo dõi đường đi lối lại của nó mà tìm cách tiêu diệt. Gia đình bà Kỳ lại là nơi nuôi giấu anh. Một thời gian sau, tên ác ôn bị đền tội. Gia đình bà Kỳ cũng bị lộ. Ta phải đưa họ ra vùng tự do.
*
Ông Cảnh ngừng kể, bảo tôi:
- Còn nhiều chuyện lắm, kể hết ngày này sang ngày khác không hết. Nhưng đây là những chuyện tôi thấy sâu sắc nhất nên kể với anh. Tất cả những con người này ở mọi tầng lớp, đã nuôi giấu, bảo vệ anh em cán bộ chúng tôi như vậy đó. Thế mà sau chiến tranh, tôi mở một đợt đi thăm các cơ sở cũ nhưng hầu như chẳng gặp được ai, người thì mất, người thì lưu lạc nơi đâu, có thể có người vẫn còn sống, nhưng chẳng ai đến nhờ chúng tôi chứng nhận công lao gì cả. Họ đóng góp cho cách mạng như thế, cách mạng thành công thì họ lo làm ăn sinh sống. Cuộc đời họ thầm lặng như cây cỏ ấy mà…
Giọng ông Cảnh nghẹn ngào. Mắt ông rưng rưng…♦
Quay đầu mấy bận ♦ ĐỖ TRUNG LAI
Khoác ba lô lên đường Út đi, đầu mẹ bạc Các anh nhập ngũ rồi Người còn, người đã thác Khoác ba lô lên đường Cha không còn như trước Ngồi chẻ lạt bên thềm Từ lâu, nghiên cạn mực Rồi từ tạ, con đi Lấy “trung” làm “hiếu” vậy Vẹn toàn làm sao đây Khi khắp trời lửa cháy Những vần thơ cha ngâm Theo con vào trong ấy Áo mẹ khâu cho con Quay đầu, con gửi lại Con giờ bảy mươi rồi Tang bồng, trang trắng nợ Nhưng trời chỉ cho con Báo hiếu trong ngày giỗ! * Ngày giỗ, dâng hương lên ban thờ Nhòe ảnh mẹ cha bày trước mặt Lại phải quay đầu giấu cháu con Ai bảo già thì khô nước mắt? 2020 |