HV155 - Văn bia Thăng Long - Hà Nội(*)

LTS: Hà Nội ngàn năm văn hiến, nhưng có nơi có lúc cũng lắm tệ nạn. Bài văn bia Thân cấm khứ tệ được dịch nghĩa sau đây minh chứng cho việc ấy. Hai quan Tổng đốc Hoàng Diệu và Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng đã vì dân trừ tệ. Bài văn bia sinh động, nói lên tình cảnh dân đen, nay đọc lại mà cảm thương cho việc đời lắm nỗi và cũng là tấm gương về việc bảo vệ dân, trừ tệ nạn.

 Ô Quan Chưởng thuở xưa

Ban bố lệnh cấm, trừ bỏ tệ nạn (tại cửa ô Quan Chưởng(1))

Tổng đốc Hà Ninh họ Hoàng, Tuần phủ Hà Nội họ Hoàng(2) nghiêm sức:

Nay căn cứ các tờ bẩm lên của thân sĩ, các hộ dân phố trong hạt cho biết rằng hạt này nguyên là người tứ chiếng(3) tụ tập lại ở chung không có hương ước. Lý dịch các thôn, phường có khi dung dưỡng bọn vô lại, cho chúng ứng trực ở điếm canh, chẳng những chúng không tuần phòng mà khi nhà dân các phố có việc đưa ma, chôn cất, bọn chúng đóng ở các nơi trong hạt, đều ra sức sách nhiễu tang gia, không kể xa hay gần, đông người hay ít người, sinh sự bắt ép giá cả, ai không chịu thì chúng cản trở việc tang ma.

Ví như năm Tự Đức thứ 32 (1879), người phố Hàng Bạc là Lã Khắc Tế, nhà nghèo, con mồ côi sáu tuổi ốm chết, thuê bốn người khênh quan tài, mà bọn phu điếm sở tại lại bắt ép phải thuê tám người, đòi tiền 24 quan, chúng mới chịu nhận làm. Bấy giờ bà con láng giềng bất đắc dĩ phải quyên tiền đưa đúng số giao cho chúng.

Lại cũng năm ấy, ở Ngõ Miếu phố ấy, tên Lê Chích mắc bệnh dịch chết, đưa ma chỉ thuê có chín người mà đòi tiền những 36 quan, vì nhà nghèo không đủ số tiền phải nhờ người làng khác khênh. Bọn phu điếm bèn sinh sự đánh lộn, đến nỗi những người làng khác phải chạy hết, không dám giúp việc đưa ma. Sau đó tang gia phải bán đợ vay mượn đủ số tiền để trả, theo yêu sách của chúng. 

Lại nữa, ngày tháng giêng năm nay, ở thôn Thuận Mỹ có tên Tuế nhà nghèo, làm thợ sơn thuê, vợ ốm chết, thuê tám người khênh quan tài, bọn phu điếm sở tại đòi 30 quan, đến nỗi tên ấy phải xin làm thợ sơn, nhận tiền công trước vài năm để đưa cho bọn phu điếm.

Lại nữa: cũng ngày tháng giêng, thị Quang thôn ấy có người nhà ốm chết, thuê bốn người phu, bọn phu điếm đòi 40 quan.

Tệ sách nhiễu của bọn phu điếm gây ra không thể kể hết được, mà xét đến gốc rễ là do bọn lý dịch mà ra.

Lại như bọn ở trại Dưỡng Tế(4) nhân các dịp cưới xin ma chay, tụ tập nhau lại nhũng nhiễu các phố, thường ngày ra các thuyền bè ngoài bến sông cùng các hàng vặt ở chợ, lộng hành cướp giật, tệ hơn cứ vào dịp cuối năm, vào nhà người ta đòi dăm ba quan, không đưa thì sinh sự vu vạ.

Tình trạng nhũng nhiễu ấy dân đã bẩm lên, xin trên sức xuống cho xung quanh bên ngoài thành, hễ có việc tống táng thì để cho tang chủ tùy nghi mà làm, nếu có người ngoài đến giúp thì lại càng tiện; hoặc thuê phu thì không nhất thiết phải thuê người sở tại. Còn như thuê nhân công thì cứ chiếu theo như lệ cũ (ở trong cửa ô thì mỗi tên thuê bốn mạch, ở ngoài thì mỗi tên thuê năm mạch, hoặc làm cả ngày mỗi tên thuê bảy mạch) việc thuê phải được công bằng và thích đáng. Còn thói sách nhiễu cua bọn phu điếm và bọn Dưỡng Tế thì nhất thiết xin cấm hẳn để uốn nắn lại phong tục. Ngoài ra lại xin giao cho các viên chức nơi đó quyên góp khắc một bia đá dựng trước nha môn quay mặt ra đường cái quan, để cho mọi người qua lại đều biết, kính cẩn thi hành.

Cứ theo mọi lẽ trong lời bẩm thì bọn lý dịch trong hạt đó thường ngày không khỏi có thông đồng, dung túng bọn phu điếm, không nghiêm cấm bọn Dưỡng Tế, để đến nỗi sinh tệ đã thành thói quen, thật là đáng ghét, và cần phải nghiêm cấm. Vậy sắc cho phải theo như các khoản trong tờ bẩm của dân, lập tức yết lên và ra lệnh cho các phố cùng tổng lý trong hạt trừng trị bọn phu điếm canh cùng bọn trại Dưỡng Tế. Từ nay về sau, ai nấy phải chiếu theo mà làm cho thỏa đáng, không được sách nhiễu.

Nếu như sau khi đã ban lệnh nghiêm ngặt rồi, chỗ nào hãy còn tệ nạn như cũ, phát giác được thì trừ bọn can phạm cùng tổng lý bị trừng trị nặng, huyện nha sở tại cũng khó mà chối cãi được lỗi của mình.

Việc này quan trọng, vì dân trừ tệ, phải cẩn thận, chớ ngại xem giấy tờ, lười nhác mà gác bỏ, như thế mới được. Ngoài ra lại phải chuyển lệnh cho các thân sĩ trong hạt biết mà làm. Cần thi hành tốt tờ nghiêm sức này! Tờ nghiêm sức trên đây, giao cho quan huyện Thọ Xương kiêm coi công việc huyện Vĩnh Thuận, họ Nguyễn, chiếu theo đó thi hành.

Ngày 12, tháng 4, năm Tự Đức thứ 34 (1881).

Huyện nha huyện Thọ Xương sao lục niêm yết cho các hộ phố Thanh Hán tuân theo.

Thân sĩ các hộ phố ở hai hạt Thọ (Xương) Vĩnh (Thuận) kính sao và khắc bia dựng trước nha môn để tuân theo mãi mãi.♦


(*) Bài trích từ sách Văn khắc Hán Nôm Thăng Long - Hà Nội, chủ biên: PGS-TS Đỗ Thị Hảo, dịch giả: Mai Xuân Hải, PGS-TS Đỗ Thị Hảo, Th.S Nguyễn Kim Măng, Th.S Nguyễn Thị Hoàng Quý. NXB Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 2010.

(1) Cửa Ô Quan Chưởng: hiện ở đầu phố Hàng Chiếu, Hà Nội, còn gọi là cổng Phố Mới, hay là cửa Thanh Hà, Cửa ô được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), năm Cảnh Hưng thứ 46 (1785) có sửa lại, và năm Gia Long thứ 3 (1804) xây dựng lại theo quy cách như hiện nay. Đây là cửa ô duy nhất còn lại cổng xây, trong số 21 cửa ô ở ngoại vi thành Thăng Long cũ.

(2) Tổng đốc Hà Nội - Ninh Bình lúc đó là Hoàng Diệu, Tuần phủ Hà Nội lúc đó là Hoàng Hữu Xứng.

Hoàng Diệu đỗ Phó bảng năm 1853, quê xã Xuân Đài, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam. Ông đã chống lại quân Pháp trong trận chúng đánh chiếm thành Hà Nội năm 1882 và đã tự tử sau khi thành mất.

Hoàng Hữu Xứng đỗ Cử nhân năm 1852, người xã Bích Khê, huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị.

(3) Tứ chiếng: chữ Hán là “tứ chính”, chỉ 4 đạo xung quanh kinh thành Thăng Long xưa là Kinh Bắc (Bắc Ninh), Sơn Nam, Hải Đông (Hải Dương), Sơn Tây; chỉ những người quê ở các tỉnh tới đó ngụ cư ở Hà Nội.

(4) Dưỡng Tế: tên một trại tập trung nuôi những người mắc bệnh hủi. Trại Dưỡng Tế của Hà Nội nằm ở bãi sông Hồng, phía ngoài đền Đồng Nhân thờ Hai Bà Trưng, nay thuộc địa phận quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.