Một di sản bị từ bỏ
Dưới thời Pháp thuộc, Nho học (được gọi là cựu học) ngày càng suy vi do những tín điều cổ hủ lạc hậu của nó không thích hợp với xã hội đương đại và lối học từ chương khoa cử của nó không giúp ích gì cho sự canh tân đất nước. Vì vậy, đến đầu thế kỷ XX Nho học được thay thế bằng nền học vấn mới (tân học) sử dụng tiếng Pháp và chữ quốc ngữ có nguồn gốc La tinh. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã khẳng định nền độc lập dân tộc cùng với sự độc tôn của chữ quốc ngữ.
Tuy nhiên, nếu như việc sử dụng chữ quốc ngữ đã giúp nước ta vươn lên, đạt được những thành tựu to lớn về văn hóa, giáo dục và các lĩnh vực khác, thì việc loại bỏ hoàn toàn chữ Hán lại dẫn tới những mất mát không nhỏ về bản sắc văn hóa mà dân tộc ta đã dày công vun đắp qua hàng nghìn năm.
Mọi người đều biết những giá trị tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc đã kết tinh trong một danh nhân vĩ đại là Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã được ngợi ca là “Đại Trí, Đại Nhân, Đại Dũng”. Nhưng trong xã hội hiện nay, các giá trị như “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, “trung, hiếu, tiết, nghĩa”, “công, dung, ngôn, hạnh”… chỉ còn là những hình bóng mờ nhạt. Khi đã gạt bỏ những sự ràng buộc nghiệt ngã cổ hủ mang tính chất giáo điều của chúng khiến cho quyền tự do cá nhân bị xâm phạm và sự phát triển xã hội bị cản trở, thì có thể nhận thấy chính những giá trị này đã tạo nên phẩm chất cao đẹp về những người quân tử hay thục nữ của ông bà ta. Còn “cần, kiệm, liêm, chính”, “chí công, vô tư”, “quang minh chính đại”… là những giá trị vĩnh cửu. Sự lãng quên những giá trị đó sẽ làm cho đạo đức xã hội xuống cấp. “Thanh lịch” là một phẩm chất quý báu từ xưa của người Hà Nội, nhưng ngày nay chính quyền thành phố đang phải xây dựng các “tiêu chí” về “thanh lịch, văn minh” cho nhân dân thủ đô. Chẳng phải ngẫu nhiên mà các phong trào “xây dựng gia đình văn hóa”, “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” hay “học tập gương đạo đức của Bác Hồ” luôn được phát động trong cả nước… Trong nhà trường, người ta phải nhớ lại lời Khổng Tử để nêu khẩu hiệu “Tiên học lễ - hậu học văn” hay “Lương sư - Hưng quốc”, nhưng khẩu hiệu có trở thành hiện thực hay không vẫn còn là một dấu hỏi. Việc dạy học cổ văn không dựa trên bản gốc Hán-Việt, mà chỉ dùng bản dịch sang chữ quốc ngữ khiến cho người học không thể cảm thụ đầy đủ giá trị các áng văn chương xuất chúng như Nam quốc sơn hà ở thời nhà Lý, Dụ chư tì tướng hịch văn của Trần Quốc Tuấn, Bạch Đằng Giang phú của Trương Hán Siêu, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi… cho đến cả Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh. Khi không biết chữ Nho mà chỉ dùng từ Hán-Việt phiên âm bằng chữ quốc ngữ (chiếm hơn 70% vốn từ tiếng Việt), người ta phạm rất nhiều sai lầm về ngữ nghĩa trong các văn bản, làm giảm tính chính xác của Việt văn.
Tổ tiên ta đã để lại cho hậu thế một khối lượng thư tịch đồ sộ trong các kho lưu trữ của nhà nước, nhưng chỉ có một số ít ỏi các chuyên gia Hán-Nôm của ta và người Trung Quốc đọc được, còn đông đảo công chúng bao gồm cả giới trí thức Việt Nam không hề biết đến, hoặc chỉ ngóng chờ một vài bản dịch sang chữ quốc ngữ. Ở các đình chùa, đền miếu, lăng tẩm là di tích lịch sử của tổ tiên ta có rất nhiều những lời giáo huấn quý báu được ghi tạc trong các hoành phi câu đối hay bia đá, nhưng hầu hết người Việt ngày nay không biết ở đó viết gì, trong khi các du khách ngoại quốc từ Trung Quốc, Nhật Bản hay Hàn Quốc đến thì lại đọc hiểu dễ dàng nên cảm nhận đầy đủ những di sản đó!
Ngày nay đã có những đình chùa dùng chữ quốc ngữ để viết hoành phi câu đối, bằng cách gò ép các chữ cái trong mỗi từ vào một ô vuông cho có vẻ giống chữ Nho! Để khôi phục phong tục các ông đồ viết câu đối trong dịp Tết, nhiều người đã lấy bút lông chấm mực nho để viết chữ quốc ngữ mà họ gọi đó là “thư pháp”! Những sản phẩm “tân cổ giao duyên” như vậy không thể coi là sự kế thừa nghiêm túc truyền thống văn hóa dân tộc, nhưng chúng cho thấy nỗi khao khát tìm về với cội nguồn của những người không được học chữ viết của tổ tiên mình. Rất may là trong hoàn cảnh đó, vẫn còn một số cụ đồ Nho đã tái xuất để giữ lấy hồn dân tộc trong một nét văn hóa xưa. Nhưng điều đáng lo là số cụ này quá hiếm và đã quá già, vậy thì ai sẽ nối tiếp các cụ?
Thật rõ ràng: việc loại bỏ hoàn toàn chữ Hán chính là sự từ bỏ một di sản quý báu để kế thừa và phát triển bản sắc văn hóa, dẫn tới sự đứt gãy về văn hóa của dân tộc. Vì thế, chính người Pháp khi còn cai trị nước ta cũng đã do dự về việc này. Một quan chức giáo dục ở Trung Kỳ là G.Dumoutier nói: “Nếu những đứa trẻ An Nam (…) mà không biết đọc và viết chữ Hán - Nôm thông dụng, thì chúng sẽ trở thành người ngoại quốc trên chính đất nước của chúng”(1). Toàn quyền Pasquier nói: “Sự hủy bỏ nền giáo dục Hán-Nôm đồng nghĩa với sự hủy bỏ về giáo huấn đạo lý”(2). Người đã ký văn bản chấm dứt hệ thống khoa cử Nho học là Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã phải trăn trở: “Tôi đắn đo khi quyết định loại bỏ chữ Hán vì tôi sợ bị mang tội với lịch sử là kẻ hủy diệt văn hóa”(3). Khi ấy, nhà văn hóa Phạm Quỳnh đã phát biểu: “Nho học đã nhiều phần quá cũ rồi, không hợp thời nữa (…). Ta nên bỏ là bỏ phần hình thức phiền toái, còn phần cốt cách tinh túy phải giữ lấy, vì nước ta còn có mặt trên địa cầu là còn phải nhờ cái tinh thần cố hữu ấy mới sống được. Nhưng muốn giữ tinh thần ấy mà bỏ hẳn chữ Hán là biểu hiện của tinh thần ấy thì sao được”(4). Ngày nay, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Cảnh Toàn đã nhận ra rằng việc từ bỏ chữ Nho để lại cho nền văn hóa Việt Nam “một khoảng trống đáng sợ”.
Phải bảo tồn di sản đó
Giờ đây, các nhà ngôn ngữ học đang phải tìm xem: ai đã bức tử chữ Hán-Nôm? Việc đó cũng cần thiết, nhưng quan trọng hơn là phải khắc phục sự đứt gãy về văn hóa để bảo tồn và phát triển di sản truyền thống của dân tộc. Các học giả hàng đầu ở nước ta đã vạch rõ giải pháp cơ bản cho vấn đề này là khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường. Cố Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên đã khẳng định phải xây dựng nền cổ học Á Đông. Nhà ngôn ngữ học vừa quá cố Cao Xuân Hạo đã tuyên bố: “Việc học chữ Hán không thể không đưa vào chương trình trung học”.
Các nhà ngôn ngữ học hiện nay như Nguyễn Đình Chú, Đoàn Lê Giang đều khẳng định: “Khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường - một phương pháp quan trọng để giữ gìn tiếng Việt và văn hóa Việt Nam”.
Thực hiện giải pháp này không phải là một nhiệm vụ quá khó. Ở miền Bắc cho đến năm 1950 và ở miền Nam trước 1975 nhà trường vẫn dạy chữ Hán bằng những chương trình hợp lý và rất có hiệu quả. Các trường đại học cần tổ chức lại khoa Việt văn theo hướng nâng cao vai trò và chất lượng của bộ phận dạy Cổ văn (Hán-Nôm) cho tương xứng với bộ phận dạy văn Hiện đại (dùng chữ quốc ngữ). Sinh viên khoa này cần được học chữ Hán (có thể thay cho ngoại ngữ) đến trình độ đủ để dạy cho học sinh phổ thông. Khoa Lịch sử cũng cần học Hán-Nôm để sinh viên có thể đọc hiểu các thư tịch cổ.
Chương trình Việt văn của các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông cần xây dựng lại, theo hướng loại bỏ bớt những học vấn trùng lặp, nhồi nhét nặng nề không cần thiết, để dành thời gian thích đáng cho việc học Cổ văn với chữ Hán làm gốc. Chương trình cần giúp học sinh tiếp cận được các văn bản gốc Hán - Nôm với những cú pháp căn bản và một số lượng từ nhất định. Có thể đó là một chương trình phân ban để có được một ban chuyên sâu về Cổ văn, tạo điều kiện cho học sinh nâng cao trình độ và tiếp tục học lên đại học theo chuyên ngành Hán - Nôm. Dĩ nhiên chương trình học này cần có những sách giáo khoa thích hợp và một bộ Từ điển Hán - Việt với chữ Hán đích thực được phiên âm và giải nghĩa bằng chữ quốc ngữ.
Có người lo ngại rằng sự phục hồi chữ Hán và văn tự Hán-Nôm trong bối cảnh quan hệ quốc tế hiện nay dường như sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới tinh thần độc lập dân tộc? Điều lo ngại ấy hoàn toàn không có cơ sở, vì sự giao thoa về văn hóa không đồng nghĩa với sự lệ thuộc về chính trị. Nhật Bản và Hàn Quốc luôn bảo tồn và lưu truyền tốt chữ Hán cổ của nước họ, nhưng việc đó không hề ảnh hưởng đến tinh thần độc lập của các dân tộc này đối với Trung Quốc. Tinh thần độc lập tự cường cùng những võ công hiển hách của dân tộc ta chống quân xâm lược phương Bắc đã được khởi nguồn trên chính nền tảng văn hóa Hán - Nôm. Bản tuyên ngôn độc lập về “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” cùng những thiên “vạn cổ hùng văn” dẫn ở trên đều viết bằng chữ Hán. Như vậy, sự phục hồi chữ Hán và văn tự Hán - Nôm ở mức độ cần thiết không tạo ra ảnh hưởng tiêu cực, mà ngược lại, sẽ có tác dụng tích cực để bồi dưỡng lòng yêu nước và tinh thần độc lập dân tộc cho các thế hệ mai sau.
Khi việc dạy chữ Hán đã được khôi phục trong nhà trường, việc chọn lọc và truyền dẫn những di sản tinh hoa của dân tộc sẽ được tiến hành một cách có hiệu quả, để bồi đắp cho sự đứt gãy về văn hóa dân tộc.
______
(1), (2) Dẫn theo Mai Bá Triều - Phạm Thị Tuyết Anh.
(3) Theo tư liệu của Đoàn Lê Giang.
(4) Trịnh Bá Đĩnh. Phạm Quỳnh - Luận giải văn học và triết học. NXB Văn Hóa Thông Tin, 2003.