Mấy điều suy nghĩ về trí thức

NGUYỄN VĂN THỊNH
Hội Nhà văn TP.HCM
(Trao đổi với GS Chu Hảo)

Qua bài lược thuật của nhà báo Thu Hà trên báo Tuổi Trẻ ngày 12/6/2010 và bài viết của nhà giáo lão thành Nguyễn Việt Quốc trên tuần báo Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh ngày 24/6/2010, về một công trình nghiên cứu của GS.TS Chu Hảo với đề tài “Sĩ phu - trí thức Việt Nam”, tôi xin mạo muội nêu vài thiển ý.

1. Từ khi loài người biết sống quần tụ và hình thành xã hội, do yêu cầu tự nhiên của cuộc sống, đòi hỏi phải có những người hiểu biết về con người, tự nhiên và xã hội.

Từ sự hiểu biết nảy ra những phát minh sáng chế, xã hội càng phát triển. Số người hiểu biết ngày càng nhiều, thành một bộ phận dân chúng không thể thiếu, có ảnh hưởng quyết định tới sự phát triển của một cộng đồng hay một quốc gia. Những người hiểu biết ấy ở ta, xưa gọi là sĩ phu, nay gọi là trí thức.

Tuy nhiên, cần thống nhất nội dung ý nghĩa của từ trí thức. Hiện nay, người ta thường hiểu có tấm bằng đại học đương nhiên là trí thức. Mà trí thức là nhân tài. Người trí thức không chỉ hoạt động trong lĩnh vực chuyên môn của mình, họ có thể vươn tới nhiều lĩnh vực và tạo ảnh hưởng xã hội rộng rãi.

Ông Nguyễn Khắc Viện học trường Y ở Paris nhưng ông được nhân dân biết đến như một nhà hoạt động xã hội với nhiều công trình văn hóa có giá trị.

Người Mỹ nói: “Nhân tài của quốc gia giống như vàng trong khoáng sản” hàm ý phải đãi, phải luyện mới ra nhân tài. Ông cha ta có sự thận trọng trong từng cách gọi: sĩ phu, người tài, kẻ sĩ, hiền tài hàm chứa nội dung khác nhau. Hiền tài mới là nguyên khí quốc gia.

Xã hội càng văn minh với những phát minh khoa học liên tục và sáng chế tân kỳ, khối lượng tri thức của nhân loại tích lũy ngày càng sâu rộng, đã nhanh chóng làm thay đổi chất lượng và số lượng trí thức.

Nếu như trước kia có một số nhà trí thức được coi là học nhiều, hiểu rộng để cả xã hội tôn vinh là thầy thì ngày nay không thể có một người như thế, bởi không ai có thể học hết, hiểu hết các lĩnh vực rất chuyên sâu của cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.

Xưa vì chỉ có số ít trí thức bậc thầy như thế đương nhiên họ được toàn xã hội trọng thị, ưu ái cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Nhưng nay, do số người có học tăng nhanh và nhiều bởi chất lượng cuộc sống được nâng lên, yêu cầu của xã hội ngày một cao hơn, không bao giờ ngừng lại, thì bản thân họ phải dùng vốn kiến thức của mình như một thứ tài sản riêng để đầu tư cho sự tồn tại và tiến bộ của bản thân.

Chất lượng của người trí thức có mặt nâng lên, có mặt giảm đi là vì ở đó không chỉ một người này, người nọ có vốn kiến thức chuyên ngành trong khi họ phải cạnh tranh thậm chí bon chen quyết liệt chẳng những với nhau lại còn phải thuyết phục được giới chức đương quyền để có chỗ đứng vững đặng phát triển. Điều này tất nhiên tác động đến việc hình thành nhân cách và đạo đức của lớp trí thức mới.

Người tự trọng không ai tự nhận mình là trí thức. Căn cứ vào sở học, sở hành mà cộng đồng thừa nhận họ. Có nên chăng hãy dùng cụm từ người có học để chỉ người có chút học vấn và hiểu biết chuyên môn thay cặp từ trí thức hay là kẻ sĩ dành cho những người chẳng những có học vấn cao, lại có phẩm chất quý giá về nhân cách và tầm ảnh hưởng rộng tới cộng đồng. Một thực tế là để thành người có học không chỉ một con đường duy nhất là phải qua ghế nhà trường với những bằng cấp này nọ.

Trong hoàn cảnh đặc biệt của mỗi người, một người có thể tự học thông qua các phương tiện truyền thông và trường đời vẫn không thua kém bất kỳ ai. Tất nhiên những người này có sự thông minh vốn sẵn tính trời và sự nỗ lực bản thân đáng nể. Tuy nhiên để tránh sự đánh giá theo cảm tính và sự ngộ nhận chủ quan, Nhà nước cần có những cuộc thi tự do định kỳ nghiêm túc cho mọi lứa tuổi ở mọi cấp bậc để xác minh sở học của những người này.

2. Xã hội dân sự hay xã hội công dân (société civile) hình thành sau khi hình thái các quốc gia đã tương đối ổn định. Cùng với công việc mở mang giữ gìn bờ cõi là công cuộc xây dựng phát triển đất nước phục vụ dân sinh, trong xã hội hình thành những thành phần dân chúng: sĩ - nông - công - thương và quyền công dân được minh định.

Thực ra xã hội nào cũng có lúc yên lúc biến hoặc song song tồn tại những con sóng ngầm dưới mặt nước yên - vừa chiến vừa hòa. Không biến về nạn giặc giã ngoại xâm cũng biến về các vấn đề chính trị, kinh tế.

Đó là những hình thức chiến tranh khác nhau, không khỏi tác động tới đời sống và nhân tâm mọi người, mọi giới. Công việc tổ chức quản lý quốc gia song hành hai việc: phát triển kinh tế và quân sự.

Trong thế giới hiện đại, nền tảng kinh tế quyết định sức mạnh quân sự của mỗi nước. Một cường quốc phải có cơ sở kinh tế và quân sự tương xứng hỗ trợ nhau. Những phát minh khoa học phục vụ cho các hoạt động dân sự và quân sự. Đội ngũ trí thức càng phát triển trên căn bản đó.

Giới trí thức là một thực thể của mọi xã hội. Kẻ sĩ đích thực ở thời nào đều có cách ứng xử chuẩn mực với vai trò của mình trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Đương nhiên không thể như ông Chu Hảo cho rằng thời thuộc Pháp, với “văn minh phương Tây và chữ Quốc ngữ là bối cảnh tích cực cho sự ra đời tầng lớp trí thức đầu tiên, có chỗ đứng khá độc lập với chính quyền”!

Cần nói rõ đây là lớp trí thức thuộc địa đầu tiên của người Pháp, bởi giới trí thức đầu tiên của Việt Nam đã hình thành từ ngày lập quốc. Chữ Quốc ngữ không phải là điều kiện tiên quyết để hình thành giới trí thức Việt Nam, bởi từ lúc khởi đầu dựng nước, người Việt đã có chữ Khoa đẩu, còn gọi là Hỏa tự.

Chữ đó bị người Trung Hoa tuyệt diệt, người Việt tạm dùng chữ Hán để truyền bá văn hóa và lại sinh ra chữ Nôm cho riêng mình. Chữ Nôm bị người Pháp bức tử. Người Việt lại biết khai thác chữ Quốc ngữ từ các giáo đoàn đạo Gia-tô.

Đúng là chữ Quốc ngữ dễ học, nhất là đối với những người quen dùng mẫu tự La-tinh nhưng cũng phải đến khi người Việt Nam giành được độc lập nó mới thành phổ cập để nâng cao trình độ dân trí toàn dân và mau chóng có được một lớp trí thức đông đảo.

Giả như không có chữ Quốc ngữ thì người Việt có gây dựng được cho mình một nền văn hóa riêng chăng? Xem như người Trung Hoa, người Nhật Bản, người Triều Tiên và nhiều dân tộc dùng chữ Ả-rập, hôm nay họ có vị thế như thế nào trong cộng đồng thế giới.

Đã có lúc nào ta tự hỏi mất đi chữ Hán - Nôm, người Việt như mất viên ngọc quý? Cụ thể chưa có ai dùng chữ Quốc ngữ vượt qua các bậc tiền nhân với chữ Hán - Nôm mà đạt tới đỉnh cao tư duy và mỹ cảm như các danh sĩ tiền nhân! Đã có ai nghĩ rằng, cùng với sự lãng quên dần tới sự phủ định chữ Hán - Nôm, chúng ta đã để mất đi những giá trị cao quý nào chưa?

Chúng ta là người Á Đông không thể tách mình ra khỏi nền văn hóa cổ truyền vĩ đại ấy. Hồ Chí Minh khi còn là anh thanh niên Nguyễn Ái Quốc đi tìm đường cứu nước, đã sớm phát hiện ra:

“Marx xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử nhưng lịch sử nào - Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là cái gì? - Đó chưa thể là toàn bộ nhân loại” và Người đề nghị “Xem xét lại chủ nghĩa Marx về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng vốn dân tộc học phương Đông”.

Hiện nay, phương Tây đang hướng về văn hóa Á Đông với nhiều kỳ vọng. Chúng ta sống bên cạnh người láng giềng Trung Hoa vĩ đại, quan hệ hai nước có những lúc ấm lạnh, thậm chí là cực kỳ đau đớn cho ta nhưng chúng ta vẫn tồn tại vững vàng là bởi vì ông cha ta thấm nhuần sâu sắc văn hóa Á Đông.

Chúng ta đã nếm mùi vị đắng cay thế nào khi coi nhẹ truyền thống nền văn hóa ruột của mình? Bây giờ chỉ người điên mới bày chuyện dùng lại chữ Hán - Nôm nhưng trí thức Việt Nam có trách nhiệm phục hồi những gì và xây mới những gì là giá trị tinh thần Việt xứng tầm thời đại.

Biết vậy mới thấy thời nào văn hóa Việt cũng phải chịu những thăng trầm khốn khổ và sức trỗi dậy của kẻ sĩ Việt bền bỉ kiên cường quyết liệt tới đâu? Đó mới là niềm tự hào chính đáng của người Việt nói chung và của giới trí thức Việt nói riêng.

3. Còn như ý kiến dưới thời thuộc Pháp, tầng lớp trí thức Việt Nam có chỗ đứng khá độc lập với chính quyền, liệu có đúng không?

Giáo sư - Bác sĩ Hồ Đắc Di xuất thân từ một danh gia vọng tộc, ba đời làm quan đại thần ở triều đình Huế. Ông được hưởng một nền giáo dục căn cơ cả Á và Âu. Sau 13 năm du học và làm việc tại Paris với tấm bằng Tiến sĩ Y khoa danh giá, tưởng rằng về nước với lòng chứa chan hy vọng được đem tài năng ra giúp ích cho đồng bào mình nhưng với tâm trạng dày vò đau khổ, ông đã thốt lên:

“Phẫu thuật đối với tôi là lẽ sống, là niềm tự hào. Thế nhưng, người Pháp cai trị có đếm xỉa gì đến cái điều tôi tha thiết đó. Nỗi cay đắng đã làm tôi thấy rõ thêm một điều mà trước đây tôi mới chỉ mường tượng thấy: Chung quy chỉ tại mình là dân mất nước! Là một người thầy thuốc, tôi đã trở thành một người bệnh về tâm hồn!”.

Khi đất nước được độc lập ông đã không ngần ngại đi theo tiếng gọi của tự do bởi vì:

Lần đầu tiên trong đời tôi được thấy mình làm chủ con người mình, đất nước mình mặc dù tôi chưa thể hình dung được rõ tương lai của đất nước và tương lai mình sẽ ra sao” và ông dấn thân vào con đường gian khổ chông gai, suốt 40 năm của nửa phần đời còn lại cống hiến tài năng cho đất nước:

“Những ước mơ xưa kia tôi vẫn hằng ấp ủ nay đã hồi sinh. Tôi rất vui được truyền thụ những hiểu biết về khoa học của mình cho các lớp trẻ của đất nước”.

Hầu như đa phần giới trí thức nước nhà từ quan lại trụ cột triều đình đến trí thức tự do giữa thế kỷ XX đều hành xử như ông.

Học giả Nguyễn Văn Tố uyên thâm Đông Tây, kim cổ, tự nguyện bỏ lại cơ sở nghiên cứu ở Viện Viễn Đông Bác Cổ lên chiến khu kháng chiến và khi bị địch bắt, cụ khảng khái không chịu trở về thành hợp tác với quân xâm lược nên bị giặc Pháp bắn chết giữa núi rừng Việt Bắc!

Thế mà trước đây người được coi là nhà thông thái Trương Vĩnh Ký từ một chuyến công cán ra Bắc kỳ, gửi báo cáo về các quan thầy thuộc địa ở Nam Kỳ:

“Các quan lại Nam triều thường nói với tôi rằng, nước Pháp cố ý xâm chiếm xứ này. Tôi trả lời là không! Tất cả quý vị đều phải thấy rằng, nếu nhà cầm quyền Pháp có ý muốn xâm chiếm xứ này, họ đã có thể làm việc đó từ lâu một cách dễ dàng, không cần bàn cãi gì cả.

Quý vị phải hiểu rằng, quý vị là những kẻ yếu, thật sự quá yếu, cần sự giúp đỡ của ai đó để gượng dậy. Và tốt hơn, quý vị chỉ nên tin vào người bạn đồng minh tiếng tăm và phải dựa vào họ một cách thành thật để đứng lên, nhưng phải thẳng thắn, không hậu ý, không mưu tính kín đáo, dang cả hai tay ra với họ chứ không phải một cái chìa ra còn bàn kia thì giữ lại. Bằng ngược lại, mệt trí vì những do dự, những điều nói nửa vời đầy âm mưu của quý vị, nước Pháp buộc lòng phải ngưng che chở và bỏ mặc quý vị với số phận” (!).

Trong học thuật, ông ta khoe với Hội đồng thuộc địa: “Muốn chứng tỏ với quý vị rằng trong 13 cuốn sách đã xuất bản, tôi chưa bao giờ đi lệch mục tiêu chính và trực tiếp là sự biến đổi và đồng hóa dân tộc An Nam” (!).

Đành rằng trong những điều kiện lịch sử nhất định, người trí thức lực bất tòng tâm, những kẻ sĩ biết chọn cách ứng xử thích hợp. Cũng như Phan Thanh Giản đại quan đầu triều Nguyễn ra bản tuyên ngôn dụ hàng dân chúng:

“Số phận đã định rằng: Người nào định theo lòng Trời thì còn, người nào nghịch theo lòng Trời thì chết. Chúng ta yếu ớt, không chống nổi người Phú-lang-sa, tướng soái lính tráng đều bị đánh bại. Người Phú-lang-sa muốn đến đâu cũng đặng, những đồn lũy chắc chắn cũng phải bể.

Vậy bản chức viết công thơ cho các quan văn cũng như các tướng võ hãy bẻ gãy giáo gươm khỏi chống lại. Hỡi các quan và lê dân, các người có thể sống dưới sự điều khiển của người Phú-lang-sa, những người này chỉ đáng sợ trong lúc chiến tranh mà thôi!”.

Trách nhiệm lớn nhất của công nhân là bảo vệ quốc gia dân tộc và xây dựng tổ quốc phồn vinh. Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách, chẳng lẽ kẻ sĩ không bằng kẻ thất phu sao?

Rất nhiều minh chứng còn rành rành trong sách sử và trong trí nhớ của nhiều người về thân phận bao nhiêu kẻ sĩ được nhân dân tin yêu và gửi gắm nhiều kỳ vọng như: Phan Văn Trị, Nguyễn Hữu Huân, Trần Cao Vân, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Thái Học, Nguyễn An Ninh… và ngay cả với những người tân học còn ở độ tuổi vị thành niên như vua Duy Tân, cậu bé Kỳ Đồng (Nguyễn Văn Cẩm)… có chỗ đứng nào gọi là độc lập với chính quyền thực dân đô hộ? Chẳng lẽ các nhà trí thức Việt Nam hiện đại chóng quên đến thế!

Rõ ràng, trong giới học thức thời thuộc địa, có hai lớp người nhân cách và uy tín khác hẳn nhau. Chỉ những người trí thức chân chính mới sống mãi trong lòng dân tộc và thật sự xứng danh kẻ sĩ - hiền tài.

Những tượng đồng bia đá kia sẽ mòn đi nhưng bia miệng vẫn còn trơ trơ mãi. Một công trình nghiên cứu về giới trí thức Việt Nam mà thiếu sự phân minh rạch ròi không khỏi ảnh hưởng tới sự hình thành nhân cách của lớp trí thức trẻ trong hoàn cảnh xã hội còn nhiều điều bất nhất.


Bia Tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội. Ảnh TL.

4. Đề cập tới lớp trí thức từ sau khi nước nhà độc lập, ông Chu Hảo gọi là lớp trí thức Việt Nam hiện đại. Nhận xét của ông là “trí thức chưa có điều kiện phát huy vai trò và giá trị của mình”!

Điều này nhà giáo lão thành đáng kính Nguyễn Việt Quốc đã có ý kiến phản biện rồi. Sự hình thành giới trí thức là một hiện tượng ngẫu nhiên và họ cũng có sự phân hóa trong một điều kiện lịch sử nhất định.

Người trí thức chân chính biết đem sở học cùng uy tín của mình, thậm chí khi cần có thể quên thân phụng sự tổ quốc và nhân dân. Đó là sự hiển hiện tức thời lý tưởng Chân - Thiện - Mỹ.

Nhà ký sinh trùng và côn trùng học Đặng Văn Ngữ đang có những công trình nghiên cứu đầy triển vọng về miễn dịch và di truyền học đã bỏ lại trong các phòng thí nghiệm hiện đại ở Tokyo để về nước tham gia kháng chiến.

Giữa rừng già Việt Bắc, ông đã dùng nước thân cây ngô làm dung môi sản xuất dung dịch Péniciline chữa cho thương binh. Và sau này, giữa rừng già Trường Sơn, ông lấy thân mình làm vật chủ cho muỗi đốt để nghiên cứu một loại Vac-cin trị sốt rét và hy sinh dưới làn bom B52, để lại sự nghiệp còn dang dở!

Nhà khoa học Trần Đại Nghĩa được nhà nước bảo hộ Pháp cấp học bổng qua Paris học chuyên ngành cầu đường nhưng ông lén học phương pháp chế tạo súng, rồi theo Cụ Hồ về nước khi tổ quốc cần và ông đã có đóng góp thế nào? Nhân dân ghi nhớ công tích và tôn vinh các ông là những vị anh hùng.

Những nhà trí thức danh tiếng ở miền Nam như Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát… bằng tài năng, nhân cách và hành động đã là ngọn cờ tiêu biểu trong công cuộc đấu tranh cho hòa bình thống nhất đất nước.

Rất nhiều nhà khoa học trẻ tạm gác lại ước mơ, bỏ dở những công trình nghiên cứu lâu dài, lăn vào bom đạn tìm ra những giải pháp thiết thực giải quyết thành công những yêu cầu cấp bách của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung của dân tộc.

Trong số những người trí thức không có điều kiện tham gia vào cuộc kháng chiến chống ngoại xâm vẫn có cách ứng xử thích hợp với hoàn cảnh của từng người.

Một trí thức bậc thầy vào hàng trưởng thượng, sau ngày thống nhất đất nước đã nói thật lòng: “Tôi bỏ chính nghĩa mà đi thì còn điều gì để nói nữa!”.

Không ít người trí thức chân chính, tự gạt bỏ điều u uẩn riêng tư, lấy đại nghiệp quốc gia làm điều chân nghĩa. Dù đứng ở đâu họ không hề làm vật cản trên con đường giải phóng non sông. Trong chiến thắng chung của dân tộc, họ cũng có phần đóng góp.

Ngay từ những ngày đầu nhân dân ta giành được độc lập, những người trí thức chân chính đã ủng hộ Cụ Hồ, hướng về dân tộc. Thời kỳ cuối của cuộc chiến tranh, những Mặt trận II (Liên minh đa chính kiến thành phần), Mặt trận III (Hòa giải hòa hợp) được rất nhiều trí thức trung gian ở Sài Gòn hưởng ứng.

Người trí thức không nhất thiết duy chỉ làm chuyên môn, học thuật. Lịch sử và nhân dân bức thiết cần gì, họ hết lòng phụng sự. Trong hoàn cảnh đặc biệt của đất nước, giới trí thức Việt Nam cống hiến hoàn toàn trí tuệ, sức lực và đã hoàn thành sứ mạng cao cả của mình. Vai trò và giá trị của kẻ sĩ là ở đó!

Trí thức có thể hình thành một tầng lớp xã hội riêng chăng? Cùng với sự phát triển của xã hội, mặt bằng dân trí được nâng lên thì giới trí thức ngày càng đông đảo.

Dù tài năng cá nhân vẫn được khẳng định nhưng địa vị độc tôn của trí thức không còn nữa. Đành rằng công việc của người trí thức có những đặc thù riêng và trong mối đan xen chằng chịt những phát kiến khoa học, họ vận dụng những thành tựu của nhau nhưng họ dồn công sức vào những công việc khác nhau và cá tính nghề nghiệp rất mạnh mẽ.

Kết quả việc làm của họ ảnh hưởng tới từng bộ phận dân chúng khác nhau và uy tín của họ nổi lên trong đó.

Trí thức là người đại diện cho dân chúng nói lên ước vọng của mình và đi đầu hướng dẫn họ hành hương tới chân trời chân lý. Chỉ một sự gắn kết với cộng đồng, người trí thức mới có thể phát huy tài năng và gầy dựng uy tín rộng lớn, càng phát huy tác dụng cho mình.

5. Ông Chu Hảo nêu ra thiên chức của trí thức trên cả thế giới là: “Tiếp thu và truyền bá tri thức khoa học - công nghệ hoặc văn học, nghệ thuật; sáng tạo các giá trị mới của khoa học - công nghệ hoặc văn học, nghệ thuật; đề xuất phản biện một cách độc lập các chính sách giải quyết các vấn đề xã hội; dự báo và định hướng dư luận xã hội” và phẩm tính của tri thức được nhân loại đúc kết chung lại là: “Tôn thờ lý tưởng Chân - Thiện - Mỹ, độc lập tư duy; hoài nghi lành mạnh; tự do sáng tạo”. Tôi thật sự hoài nghi rằng, giới trí thức năm châu bốn biển ra tuyên ngôn này ở đâu và tự bao giờ?

Người trí thức là người làm khoa học. Thiên chức của trí thức là sáng tạo bởi khoa học là sáng tạo. Proudhon nói: “Khoa học là sự nổi loạn của tư duy” bởi mọi sự ổn định chỉ là giả tưởng. Khoa học không có sự thỏa mãn, nó đòi hỏi luôn phải tìm ra cái mới và mới nữa.

Khổng Tử nói: “Kẻ sĩ mà cứ muốn ở yên thì chưa đủ gọi là kẻ sĩ”. Chân lý khoa học đồng nhất với mục tiêu của trí thức là Chân - Thiện - Mỹ nhằm giải thoát con người khỏi những ràng buộc của tự nhiên và xã hội để được tự do - bình đẳng - hạnh phúc.

Còn như người trí thức làm được những gì và làm được đến đâu là tùy theo khả năng của họ và tùy thuộc vào điều kiện xã hội họ đang sống. Người trí thức cũng là công dân nên lúc nào, ở đâu họ cũng phải gương mẫu làm tròn trách nhiệm công dân.

Điều này tùy lúc tùy nơi, người trí thức tự chọn cách hành xử của mình sao khỏi hổ danh và giới chức cầm quyền tạo điều kiện cho họ làm được tới đâu. Người trí thức nào cũng sống trong một xã hội với những điều kiện vật chất và tinh thần nhất định không khỏi tác động tốt xấu tới sự phát triển tài năng của họ.

Vấn đề là ý chí chủ quan của người trí thức và sự hợp tác chủ động tích cực của giới cầm quyền để người trí thức phát huy tối đa tài năng của họ cho sự nâng cao chất lượng cuộc sống của xã hội đương thời.

Thực tế là không ít bậc đế vương hoặc nguyên thủ quốc gia không có phẩm học cao tột đỉnh mà vẫn được kẻ sĩ - trí thức mọi thời suy tôn là thánh đế, minh quân hay là nhà lãnh đạo tài ba sáng suốt.

Có hiền tài mới có minh quân và có minh quân ắt có lắm hiền tài. “… Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế, các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết…” (Thân Nhân Trung).

6. Sau khi nêu ra phẩm tính của trí thức ở một số nước như: Mỹ là thực tế, Đức là chính xác, Nhật là khiêm tốn, Trung Quốc là thâm thúy… và phương châm hành xử của trí thức Việt ta là “cấp lưu dũng thoái” (gặp dòng nước xiết phải biết dũng cảm rút lui), nghĩa là sống tùy thời - chắc ông Giáo sư không muốn nói là láu cá!

Nếu quả thật người Việt mình, kẻ sĩ Việt mình xấu xí như vậy mà nói thẳng ra cũng chẳng có chi là xấu hổ. Tôi chỉ muốn nói với bạn đọc rằng, tại trường Đông Kinh Nghĩa Thục xưa ở phố Hàng Đào - Hà Nội, nhà chí sĩ Lương Văn Can thường nhắc nhở một câu mà giới sĩ phu thuộc nằm lòng, lại truyền cho con cháu là: “Bảo quốc túy - Tuyết quốc sỉ”, nghĩa là phải giữ gìn cái tinh hoa của dân tộc mình, phải rửa sạch nỗi nhục của tổ quốc mình - là mất nước.

Các thế hệ con cháu người đã rửa được nỗi nhục mất nước rồi. Còn cái tinh hoa tức là cái quốc túy - cái hồn Việt ta là gì thì các nhà trí thức Việt Nam hiện đại hãy tìm cho ra. Nếu nó mất rồi thì ta dựng lại, nếu nó ẩn khuất dưới dạng nào thì đưa nó ra dạy cho đàn con cháu về sau nhận dạng đúng chân dung ông bà tổ tiên ta.

Tôi có suy nghĩ rằng, chỉ nguyên một việc nước Nam ta tồn tại hàng mấy ngàn năm bên một quốc gia phương Bắc mạnh như thế, thâm hiểm như thế, tàn độc như thế trong khi bao nhiêu quốc gia lân bang đã bị họ nuốt chửng rồi thì không phải là không có những điều kỳ lạ?

Lại nữa, những cường quốc mọi thời với những dấu ngựa, vết giày của họ tới đâu cũng làm cho bao nhiêu dân tộc khiếp vía quy hàng mà người Việt mình biết đoàn kết, bảo nhau chống lại, đuổi được chúng đi, bảo tồn được non sông nòi giống thì dân tộc ấy, tiêu biểu là giới trí thức nước ấy không phải là lũ láu cá bạc nhược hèn nhát chỉ biết “cấp lưu dũng thoái”!

Chỉ một điều đáng buồn là chúng ta không được sống yên lâu! Do đâu? Không chỉ cần câu trả lời của những người trí thức! Cùng là học trò Khổng - Mạnh, kẻ trượng phu Hoa Hạ lấy điều Nhân - Trí - Dũng lập thân để đạt chí bình thiên hạ mà kẻ sĩ nước ta lấy điều liêm sỉ (sống trong sạch và biết hổ ngươi) làm trọng. Sống trong sạch để giữ mình. Biết hổ ngươi tất không làm điều xấu và không chịu nhục. Nhờ thế mà giữ được mình, được nhà, được nước.

Với người trí thức, làm và được làm cho điều thiện là động lực phát triển trong khi Giáo sư Chu Hảo đánh giá: “Điểm mạnh của trí thức XHCN là: yêu tổ quốc, yêu CNXH, trung với Đảng, hiếu với dân, cần cù, thông minh, sáng tạo, dũng cảm, không sợ khó khăn gian khổ. Và điểm yếu là: hời hợt trong tư duy, thiếu nghiêm túc trong nghiên cứu và có tính cơ hội”.

Trong cái mớ nhận xét ấy có điểm nào là chính yếu? Và căn cứ vào mấy điểm yếu nêu ra: hời hợt trong tư duy thì làm sao sáng tạo? Thiếu nghiêm túc trong nghiên cứu thì làm sao có thành công? Và kẻ sĩ mà cơ hội thì đại họa!

Vậy là gần hai phần ba thế kỷ rồi, xã hội ta chưa đào tạo ra được một lớp trí thức tử tế, đàng hoàng?! Tôi muốn hỏi những nhà trí thức Việt Nam đương đại đưa ra nhận xét này có trừ mình ra? Và liệu có thể tin vào tính công phu, cẩn trọng, sự đúng đắn và nghiêm túc của một công trình như thế?

TP.HCM, tháng 7/2010


Bài liên quan: