Với nhiều huyền thoại xung quanh cuộc đời, bà từng cầm chai rượu đưa lên đầu để tên chúa ngục Bà Rá tập bắn với một trò đùa chết người trong gang tấc… Năm 1946, bà đề xuất với Trung ương chi viện vũ khí cho chiến trường miền Nam… Và ngay từ năm 1946, trong một đêm đông, trời tối đen, gió bấc thổi mạnh, bà chỉ huy đoàn thuyền nan xuất phát từ bến Đà Diễn – Phú Yên, lợi dụng sức gió vượt trùng khơi vận chuyển 12 tấn vũ khí vào Nam, mở ra Con đường huyền thoại trên biển Đông… (Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển).
Nữ tướng Nguyễn Thị Định sinh ngày 15/3/1920 trong một gia đình nông dân tại xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi (1936) trong phong trào Đông Dương. Đại hội tháng 10/1938, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1940, bà bị địch bắt đày lên Bà Rá. Trong những năm tháng bị lưu đày ở vùng Bà Rá ma thiêng nước độc, bà Định có nhiều giai thoại đấu tranh rất lý thú đã từng được nhà văn Nguyên Hùng ghi lại trong tập sách Nam Bộ - Những nhân vật một thời vang bóng(1).

Thiếu tướng Nguyễn Thị Định may áo cho bộ đội. Ảnh TL.
Chuyện kể rằng, chúa ngục Bà Rá - đại úy D’Ersnt (anh chị em tù gọi là thằng Đẹt) là một tên ác ôn khát máu. Đẹt nuôi một con chó berger đặt tên là Nam Kỳ chuyên uống máu tươi của những người tù vượt ngục không may bị bắt lại. Tên Đẹt hành hình công khai tù binh vượt ngục bằng cách cho chó săn giết và uống máu tù binh nhằm trấn áp tinh thần những người tù bất khuất tìm cách vượt ngục.
Thấy ánh mắt căm thù của chị em tù chính trị, tên Đẹt nắn gân bằng cách bắt người nữ tù cứng đầu cứng cổ Nguyễn Thị Định cầm chai rượu đưa lên cao khỏi đầu cho nó tập bắn. Rất nhiều người tù xanh mặt vì trò đùa chết người của tên chúa ngục bởi chỉ nhích bàn tay một chút là đi đứt một mạng người.
Bà Định bình thản nói thẳng vào mặt tên Đẹt: “Theo đúng luật, ông không có quyền bắt tù chính trị làm trò chơi nguy hiểm này. Nhưng để chứng tỏ là chúng tôi không sợ chết, tôi vui lòng cầm chai cho ông bắn, nhưng chỉ một lần này thôi”, và ung dung cầm chai bước tới vạch ghi sẵn, bình tĩnh đưa chai để trên đầu cho tên chúa ngục bắn. Hành động quả cảm này làm cho tên Đẹt trọng nể nhóm nữ tù chính trị bị lưu đày ở ngục Bà Rá.
Năm 1943, Nguyễn Thị Định ra tù, tiếp tục hoạt động tại địa phương Bến Tre. Năm 1944, bà tham gia vận động quần chúng theo chương trình hành động của Mặt trận Việt Minh. Năm 1945, Nguyễn Thị Định tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền tỉnh Bến Tre và được bầu vào Ban Chấp hành phụ nữ cứu quốc tỉnh.
Năm 1946, bà được tổ chức cử ra Trung ương báo cáo tình hình tỉnh Bến Tre và cả Khu VIII, đồng thời xin Trung ương chi viện vũ khí cho Nam Bộ. Bà được gặp Chính phủ Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh, mọi yêu cầu của bà đều được Bác Hồ và Trung ương giải quyết. Trung ương quyết định hình thành đường dây vận chuyển vũ khí chi viện cho Nam Bộ do bà Nguyễn Thị Định đề xuất và phụ trách tổ chức thực hiện, lấy vùng tự do Khu V làm trung chuyển.
Người đầu tiên vận chuyển vũ khí về Nam Bộ
Từ Hà Nội, bà lặn lội vào Quảng Ngãi làm việc với Khu ủy khu V và vào Phú Yên tổ chức bến bãi vận chuyển. Tại Quảng Ngãi và Phú Yên, bà gặp gỡ giác ngộ đồng chí Phạm Ngọc Thảo tham gia Việt Minh, trở thành trung đoàn phó và sau này là cán bộ tình báo xuất sắc của ta trong kháng chiến chống Mỹ (Phạm Ngọc Thảo là nguyên mẫu của nhân vật Nguyễn Thành Luân trong tiểu thuyết và bộ phim nhiều tập Ván bài lật ngửa của nhà văn Trần Bạch Đằng)(2).
Từ Quảng Ngãi, bà nhận vũ khí rồi vận chuyển bằng tàu lửa vào ga Tuy Hòa, Phú Yên. Tại Phú Yên, dựa vào sự giúp đỡ của Đảng bộ và nhân dân địa phương, bà dành thời gian khảo sát các bến bãi từ vùng biển Gành Đỏ đến Tiên Châu và sau cùng chọn bến xuất phát ở bến cá Phú Câu cửa biển Đà Diễn (phường 6, thị xã Tuy Hòa).

Nữ tướng Nguyễn Thị Định (cầm nón lá) về thăm nơi xuất phát tàu vận chuyển vũ khí về Nam cuối năm 1946 tại cửa sông Đà Rằng (phường 6, thị xã Tuy Hòa, Phú Yên) năm 1982.
Trong thời gian chờ mùa gió bấc để xuất bến, bà Định tham gia công tác vận động quần chúng ở nhiều nơi trong tỉnh Phú Yên, cùng dân quân du kích luyện tập quân sự và tập bơi lội, bơi thúng chai, bơi xuồng trên sông Đà Rằng.
Bà Định được bố trí ở nhà bà Châu Thị Nghĩa và bà Phan Thị Nhì - Hội trưởng và Hội phó Hội Phụ nữ và Hội mẹ, chị chiến sĩ phường 6 (nay là số nhà 285 và 248 đường Nguyễn Công Trứ, TP. Tuy Hòa). Bà đã nhiều lần bơi thuyền thúng vượt sông Đà Rằng ở đoạn cửa sông để quen dần với sóng gió. Với sự giúp đỡ của quân dân Tuy Hòa, bà Định chỉ huy việc đóng tàu có thể chở được 12 tấn vũ khí và chọn người giúp sức vận chuyển vũ khí về Bến Tre.
Vận chuyển vũ khí vào Nam bằng thuyền buồm phải nhờ sức gió, mà đã là gió bấc thì sóng gió trùng khơi nguy hiểm khó lường.
Một đêm đông năm 1946, trời tối đen như mực, gió bấc thổi mạnh, bà Nguyễn Thị Định lưu luyến tạm biệt đồng đội và bà con Phú Yên, hiên ngang xuất bến Đà Diễn trong đêm tối mịt mùng vận chuyển 12 tấn vũ khí vào Nam Bộ. Thân gái dặm trường, chỉ huy đoàn thuyền nan chống chọi với biển cả trong mùa biển động, vượt qua vùng địch tạm chiếm, đưa vũ khí cập bến Thạnh Phong (huyện Thạnh Phú tỉnh Bến Tre) an toàn.
Các chuyến tiếp tế vũ khí ấy giúp bộ đội ta trang bị tốt hơn và đủ sức giáng cho địch những đòn trừng phạt nặng nề. Với thành tích này, năm 1947, bà Định được bầu vào Tỉnh ủy Bến Tre.
Phú Yên - có Vũng Rô được cả nước và cả kẻ thù biết đến là một trong những bến tiếp nhận vũ khí của đường Hồ Chí Minh trên biển. Sự kiện Vũng Rô đầu năm 1965 làm cho kẻ thù sửng sốt, choáng váng về sự chi viện vũ khí bằng đường biển của hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam.
Ít ai biết được rằng, tại Phú Yên trong mùa đông năm 1946, nữ tướng Nguyễn Thị Định được Trung ương và Bác Hồ giao sứ mệnh vận chuyển vũ khí vào Nam bằng những thuyền buồm giữa mùa biển động. Đó là chiến công đầu đời nhuốm màu huyền thoại của vị nữ tướng duy nhất của quân đội ta trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại thế kỷ XX.
Chiến công đầu đời vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường Nam Bộ bằng đường biển của bà Định được nhân rộng cách làm bằng các con tàu vận chuyển vũ khí từ Thái Lan về Nam Bộ do đồng chí Dương Quang Đông phụ trách trong kháng chiến chống Pháp và mở đường 759 (đường mòn Hồ Chí Minh trên biển) trong kháng chiến chống Mỹ.
Lãnh đạo phong trào Đồng khởi Bến Tre
Sau hiệp định Genève, bà được phân công ở lại hoạt động ở Bến Tre, được chỉ định vào Thường vụ Tỉnh ủy bí mật. Bà là vị lãnh đạo chủ chốt của phong trào Đồng Khởi Bến Tre năm 1960, được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, Khu ủy viên Khu 8 và năm 1965 được cử làm Phó Tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam phụ trách phong trào chiến tranh du kích.
Vị nữ tướng duy nhất của quân đội ta có vô vàn những huyền thoại trong cuộc đời hoạt động cách mạng sôi động và phong phú. Chuyện kể rằng, thực hiện Nghị quyết 15, Tỉnh ủy Bến Tre lãnh đạo phong trào Đồng Khởi nổ ra ngày 17/1/1960 tại ba xã Định Thủy, Phước Hiệp và Bình Khánh thuộc huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Mười ngày sau, ngày 26/1/1960, Mỹ - Diệm hốt hoảng đưa 12.000 quân về Bến Tre đàn áp dập tắt phong trào. Bà Định chỉ đạo bà con dùng 200 xuồng đưa 5000 chị em tản cư ngược vô thị trấn Mỏ Cày đòi quận trưởng rút quân. Cuộc đấu tranh của đội quân tóc dài diễn biến gay go giằng co trong 12 ngày.

Phó tư lệnh và phóng viên Báo Quân Đội Nhân Dân ở chiến trường miền Nam.
Từ trái sang: Cao Tiến Lê, Trần Hữu Tòng, Nguyễn Trọng Lượng,
Phó Tư lệnh Nguyễn Thị Định, Hà Đình Cẩn, Tô Vân, Tô Phương,
Anh Ngọc, Thiều Quang Biên.
Sau thắng lợi ở Mỏ Cày, Tỉnh ủy Bến Tre tổ chức đồng khởi ở huyện Giồng Trôm và sau đó Xứ ủy Nam Bộ quyết định đồng Khởi toàn Nam Bộ(3). Khí thế đồng khởi Nam Bộ khởi đầu từ Bến Tre lan ra miền Trung và cuộc đồng khởi ở xã Hòa Thịnh (huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên) ngày 20/12/1960 mở đầu cho phong trào đồng khởi ở đồng bằng Khu V.
Nhà cách mạng lão thành Trần Bạch Đằng trong bài viết Chị Ba Định - cảm ơn chị ngày 12/9/1992 đã đánh giá rất cao rằng, với việc hình thành phương thức đấu tranh mới “đồng khởi”, “ba mũi giáp công”, nữ tướng Nguyễn Thị Định với tài năng bẩm sinh đã đóng góp khá lớn vào quá trình hình thành và hoàn chỉnh lý luận cách mạng ở miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Bà là vị nữ tướng duy nhất của dân tộc ở thời đại Hồ Chí Minh. Một vị tướng từ lòng dân, gắn bó mật thiết với nhân dân và sống mãi trong lòng dân.
Tháng 7/1992, trên cương vị Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, bà Nguyễn Thị Định về Quảng Ngãi và Phú Yên kiểm tra bầu cử Quốc hội khóa VII nhưng mục đích chủ yếu của chuyến thăm là gặp gỡ đồng đội và bà con thân thuộc đã sát cánh với mình trong quá khứ hào hùng.
Trong bữa cơm thân mật với lãnh đạo và bà con địa phương tại Xí nghiệp chế biến hải sản, bà yêu cầu một món thôi: Sò huyết đầm Ô Loan.
Bà thưởng thức sò huyết vừa dân dã và điệu nghệ như những ngư dân thực thụ và nhận xét: “Các cậu mới vớt sò huyết tối hôm qua?”. Đồng chí Huỳnh Trúc - Chủ tịch HĐND tỉnh và đồng chí Ngô Văn Chính - Bí thư Huyện ủy Tuy An ồ lên thích thú: “Sao chị Ba biết?”. Bà vui vẻ trả lời: “Ngâm nhả bùn còn ít nên sò huyết chưa nhả hết cát. Tôi đã thưởng thức sò huyết đầm Ô Loan mấy tháng liền hồi năm 1946 và hương vị đặc biệt của nó có thể nói là ngon nhất nước”.
Trong câu chuyện ân tình, bà kể nhiều kỷ niệm về những ngày tháng hoạt động ở Tuy An, về lòng dân, tình dân và sức dân vĩ đại trong hai cuộc chiến tranh.
Chỉ hơn một tháng sau, ngày 26/8/1992, vị nữ tướng duy nhất thời đại Hồ Chí Minh vĩnh biệt chúng ta về cõi vĩnh hằng.