Năm tôi 14-15 tuổi (1925-1926) học trung học ở trường Chasseloup Laubat, tôi thường đọc báo La Cloche Fêlée (Chuông Rè) và báo L’Annam (Nước Nam) là hai tờ báo tiếng Pháp do anh Ninh sáng lập, trong hai báo đó tôi được đọc nhiều bài lấy ở báo L’Humanité và báo Le Paria xuất bản ở Pháp. Báo Chuông Rè và báo Nước Nam luôn có bài ủng hộ các cuộc bãi công của công nhân Ba Son, bãi khóa của học sinh Chasseloup Laubat và các cuộc biểu tình quần chúng ở Bến Nhà Rồng.
Đặc biệt là ngày 21-3-1926, lần đầu tiên tôi được nghe Nguyễn An Ninh diễn thuyết tại cuộc mít tinh ở đường Lanzarotte. Người anh Ninh, tóc chấm vai, mắt sáng như sao, tiếng trong như chuông, lâu nay tôi biết anh bén nhọn trên cột báo, hôm đó lại biết anh hùng hồn ở diễn đàn, không chút sợ Tây tà, đậu Cử nhân luật ở Paris về Sài Gòn không làm nghề luật sư nhiều danh lợi mà dùng câu văn, lời nói làm chiêng làm trống cảnh tỉnh, tập hợp đồng bào. Nội dung diễn thuyết của anh hôm đó hay lắm, nhưng giọng nói và tấm lòng của anh Ninh đã cảm hóa tôi còn hơn nội dung anh nói.
Đã gần 80 năm trôi qua, có lẽ tôi là nhân chứng duy nhất còn lại của cuộc mít tinh nổi tiếng ở đường Lanzarotte. Anh Ninh là diễn giả hay nhất, được quần chúng dự mít tinh cổ võ nồng nhiệt nhất. Điều lạ là sau cuộc mít tinh đó cả ban tổ chức và các diễn giả không ai bị tù, chỉ một mình anh Ninh bị kêu án 18 tháng tù. Điều đó chứng tỏ bọn thực dân đã để ý theo dõi anh từ lâu và đây là dịp tốt nhất để chúng lấy cớ bắt anh, người có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng lúc đó. Ảnh hưởng của anh lớn đến nỗi khi nghe tin anh bị bắt lần đầu tiên, đông đảo đồng bào các giới đều lên tiếng mạnh mẽ đòi thả anh: học sinh bãi khóa, thợ thuyền bãi công, bạn hàng bãi chợ, nông dân các nơi ùn ùn kéo lên chật trước Khám Lớn Sài Gòn.
Nguyễn An Ninh sau năm lần bị thực dân Pháp bắt giam và kết án tù, cuối cùng đã hy sinh ở địa ngục Côn Đảo vào tuổi 43. Cuộc đời anh quá ngắn ngủi, nhưng anh đã để lại cho hậu thế một tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí bất khuất quật cường với kẻ thù, tình nghĩa gắn bó, gần gũi với dân, lòng nhân hậu bao dung với bạn bè, đồng chí, gia đình. Một thuở, Nguyễn An Ninh là thần tượng của đồng bào lục tỉnh, của học sinh, thanh niên chúng tôi.
* * *

Các con ông Nguyễn An Ninh vui mừng đón ông Trần Văn Giàu đến thăm nhà thờ ông bà Nguyễn An Ninh tại đường Nguyễn Văn Trỗi, TP. HCM
Những ngày chập chững vào con đường cách mạng ở tuổi 14-15, tâm trí tôi lúc ấy như một tờ giấy trắng mà người đầu tiên viết lên đó những dòng chữ về yêu nước, về lý tưởng, về hoài bão, không ai khác hơn là Nguyễn An Ninh. Tôi nhớ mãi những hình ảnh trong bài diễn thuyết Lý tưởng thanh niên mà lúc đó anh Ninh gọi là Cao vọng của thanh niên An Nam.
Đám học sinh trung học chúng tôi hồi ấy đi học tại Sài Gòn ở nội trú, chủ nhật ra ngoài đi dạo phố, mặc âu phục ka ki trắng, thắt cà vạt, đi giày da kêu cộp cộp, có người không cận thị cũng mang kính trắng để ra vẻ trí thức. Nguyễn An Ninh trong bài Cao vọng của thanh niên An Nam đã có lời phê phán: “Các bạn thử nhìn, thử quan sát đám thanh niên đầy tham vọng đang thả rểu ngoài đường, mặc đồ tây, thắt cà vạt, tướng đi như vịt đực…”.
Lời phê bình đó hay lắm, đúng lắm, mà thấm lắm. Anh Ninh còn viết: “Tôi nghịch với cái thói ưa làm quan, vì thói ấy nó giết tinh thần dân tộc của ta”. Anh viết: “Tôi có lòng ước mơ rằng Trời sẽ giúp cho tôi có đủ sức và dư thì giờ để viết sách giúp đồng bào hiểu rõ tri thức của phương Đông và phương Tây”. Vì theo anh Ninh, trong lúc đồng bào còn u tối mà người nào không truyền lại cái hiểu biết thì “tội của người ấy nặng bằng giết cả giống nòi mình”.
Vì vậy anh Ninh là người Việt Nam đầu tiên ở Nam Kỳ đã hô hào thanh niên hãy thoát ra khỏi cái hẹp hòi của Khổng giáo, thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình, đi thật xa để học hỏi và trang bị cho mình một lý tưởng cao cả, không có lý tưởng cao cả thì không làm nên việc lớn. Thanh niên phải biết ước mơ, mà theo anh Ninh, phải là ước mơ siêu nhân, đất nước ta cần có nhiều vĩ nhân để giải thoát giống nòi.
Bài diễn thuyết năm 1923 Cao vọng của thanh niên An Nam của Nguyễn An Ninh đã mở ra cái hướng cho thanh niên thời đó, trở thành một trào lưu mạnh mẽ lan tràn hết sức mau khắp Nam Bộ giữa những năm 20 của thế kỷ vừa qua.
Anh Ninh còn có một tác phẩm khá nổi tiếng: Nước Pháp ở Đông Dương xuất bản ở Paris tháng 4-1925 và sau đó đăng lại toàn văn trên bốn kỳ báo Chuông Rè khi báo này tục bản tháng 11-1925. Anh Ninh mở đầu tập sách Nước Pháp ở Đông Dương bằng câu: “Hẳn không phải để làm một điều nhân nghĩa mà nước Pháp đã vượt qua khoảng cách 14.000 cây số, để sang Đông Dương”.
Anh còn viết: “Nước Pháp là nước ban bố tự do và quyền công dân Pháp cho những người mới hôm qua là nô lệ, thì chính nước Pháp đó ở Đông Dương lại đặt ách nô lệ lên cổ của một dân tộc tự do từng có nền văn hóa trong lúc người Pháp còn lạc hậu ở trong những làng xóm quanh ao hồ”.
Anh đã kể lại các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp thất bại trong 70 năm đô hộ của chúng, để đi đến kết luận: “Chống trả một tổ chức đàn áp hiện đại, ta phải có một tổ chức kháng cự hiện đại. Khi một dân tộc đã bị dồn đến tình thế không còn sự lựa chọn nào khác hơn là chết hoặc nô lệ, thì chống trả lại là thể hiện tính hùng cường. Người ta chỉ lên án bạo lực khi nó chưa cần thiết, nhưng trong trường hợp là con đường duy nhất thì ai cũng phải chấp nhận nó”.
Lịch sử tư tưởng Việt Nam thời kỳ hiện đại chép tên tuổi Nguyễn An Ninh là một trong số những người đầu tiên, nếu không phải chính anh là người đầu tiên, đã tuyên truyền cổ động có bề sâu, có bề rộng, có hệ thống những tư tưởng lớn của Đại cách mạng Pháp 1789-1792. Anh cũng là người đầu tiên cho đăng trên tờ Chuông Rè của anh toàn văn “Tuyên ngôn Cộng sản” của Mác-Ăngghen.
Cho đến ngày nhắm mắt, anh Ninh vẫn chưa phải là đảng viên cộng sản. Nhưng những người cộng sản hoạt động cùng thời với anh, kể cả Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ và tôi đều coi anh như một người cộng sản - một người cộng sản ngoài Đảng. Sau đại hội Tours năm 1920 với sự ra đời của Đảng Cộng sản Pháp, anh Ninh bỏ ý định làm luận án Tiến sĩ sau khi đã đậu Cử nhân luật, tham gia các hoạt động chính trị trong nhóm Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền. Những năm đó anh Ninh cũng kết thân với nhiều lãnh tụ Đảng Cộng sản Pháp, nhiều nhà báo, nhà văn cộng sản Pháp.
Từ cuối những năm 20 trở đi, trên chính trường Nam Bộ, Nguyễn An Ninh đã như là một người mácxít lêninnít hoạt động quần chúng, hoạt động trên lãnh vực văn hóa tư tưởng.
Tôi có cơ hội gặp và sống với Nguyễn An Ninh trong nhiều tháng ở Khám Lớn Sài Gòn trong những năm 1929-1930. Từ đó tôi biết rõ Nguyễn An Ninh và tôi khẳng định rằng Nguyễn An Ninh là một nhà yêu nước, một chiến sĩ cách mạng kiên cường, kiên quyết đấu tranh vì Tổ quốc và dân tộc, cho đến hơi thở cuối cùng.
Nguyễn An Ninh có tầm vóc một nhà lãnh đạo một cuộc cách mạng, cho nên chúng ta phải ghi nhớ những cống hiến quan trọng của một nhân vật có tầm vóc lịch sử.
Còn về những kỷ niệm trong lúc còn sống với nhau nhiều tháng ở trong tù, thì tôi phải nói rằng Nguyễn An Ninh là một chiến sĩ cách mạng giàu lòng yêu nước và ý chí đấu tranh. Chúng tôi đã trải qua nhiều thời gian để thảo luận và tranh luận rất là gay gắt về những vấn đề cực kỳ quan trọng, những quan điểm về học thuyết Mác - Lênin về đấu tranh cách mạng ở nước ta, về tổ chức cách mạng và về vai trò của quần chúng nhân dân.
Chúng tôi tất nhiên có những ý kiến khác nhau nhưng càng thảo luận thì càng đi đến nhất trí, càng hiểu biết nhau, càng có tình cảm và lòng kính trọng lẫn nhau.
Đồng thời tôi phải nói thêm rằng, ở tù cùng với chúng tôi tất nhiên có những người đồng chí, những người phụ tá trong tổ chức của Nguyễn An Ninh, thì ở đây tôi thấy rõ cái quan hệ của Nguyễn An Ninh với những người phụ tá là những người bạn chiến đấu của mình. Thái độ đó là những tình cảm, sự ưu ái rất là thân tình và trung thực. Và vì vậy cho nên những người bạn chiến đấu của Nguyễn An Ninh đối với họ Nguyễn là một lòng yêu mến và khâm phục.
Còn một điều vừa quan trọng vừa thú vị tôi nói ở đây rằng đúng là trên báo chí của nước ta trong các thời chủ nghĩa thực dân Pháp, không khi nào có một tờ báo dám gọi Toàn quyền Đông Dương là “thằng” như Nguyễn An Ninh đã làm trên tờ báo tiếng Pháp của mình, gọi Pasquier tên toàn quyền Đông Dương lúc bấy giờ là “thằng Pasquier”.
30-7-1993
Phạm Văn Đồng |
Trong các tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn An Ninh, có thể nói sách Phê bình Phật giáo của anh có chiều sâu lý luận tư tưởng hơn nhiều so với các luận văn cùng đề tài của Hải Triều và của Hồ Nam (Trần Văn Giàu). Ở tác phẩm lớn này, Nguyễn An Ninh tỏ ra là một nhà triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Quyển Phê bình Phật giáo kết thúc bằng một đoạn dài nổi tiếng trích ở tác phẩm Phê bình triết học pháp quyền của Hêghen nói về tôn giáo, tác phẩm này của Các Mác mà anh Ninh cố ý không nêu tên ở thời điểm đó. Trước khi viết cuốn Phê bình Phật giáo, Nguyễn An Ninh cũng đã có tác phẩm Tôn giáo trong đó anh là một trong số những người đầu tiên đã bàn luận, phân tích nghiêm túc vấn đề đạo giáo ở Nam Bộ.
Đối với Khổng giáo, có lẽ Nguyễn An Ninh là nhà Tây học đầu tiên đã đấm Khổng giáo mấy quả đấm kinh hồn. Ninh không đứng về thuần lý mà phê phán như nhiều người khác, mà đứng về nhu cầu trang bị cho thanh niên một lý tưởng, nhu cầu phủ định các trật tự ngày nay nhằm mục tiêu giải phóng đất nước. Chỗ đứng ấy rất mạnh.
Vẫn trong bài diễn thuyết Cao vọng của thanh niên An Nam, Nguyễn An Ninh đã có câu nói nổi tiếng, càng nổi tiếng vì nó được thốt ra từ suy nghĩ của một chàng trai 23 tuổi: “Dân tộc nào bị thống trị bởi nền văn hóa ngoại bang thì dân tộc ấy không thể có độc lập thật sự. Văn hóa là tâm hồn của một dân tộc… Một dân tộc có một nền văn hóa cao thượng thì mới nắm trong tay những đặc quyền mà những dân tộc với một nền văn hóa thấp kém hơn không thể có được. Như vậy một dân tộc muốn sống, muốn độc lập, muốn rạng danh trong nhân loại, cần phải có một nền văn hóa của riêng mình”.
Nguyễn An Ninh cho rằng cái văn hóa mà Trung Quốc và Khổng giáo đem lại cho chúng ta, xét kỹ là kém cỏi lắm. Thời nay văn hóa Tây phương phát triển, lan khắp thế giới, ta đây ở Việt Nam không thể không tiếp thu, tiếp thu nó có lợi cho ta. Nhưng mà tư tưởng Khổng giáo làm cho ta khó thu nhận văn hóa Tây Phương, khó tiến bộ, khó tổng hợp hai nền văn hóa Tây - Đông để mà tạo cho mình một nền văn hóa độc lập cao thượng. Không phải Nguyễn An Ninh cho rằng tư tưởng Khổng giáo chẳng có giá trị gì, anh nhận xét rằng Khổng Tử vẫn là một nhà tư tưởng, một nhà đạo đức lớn của thế giới. Anh viết: “Tư tưởng Khổng giáo nếu được hiểu đúng thì có thể nâng đỡ con người lên một quan niệm quảng đại và nhân từ về đời sống. Mấu chốt của học thuyết Khổng Tử là ở nơi chính bản thân mỗi người tu dưỡng lấy mình”.
Nguyễn An Ninh là một nhà báo nổi tiếng, đồng thời là nhà lý luận, và cả là nhà thực hành. Trong đấu tranh chính trị, anh Ninh là một chính khách, một nhà chính trị hoạt động, một con người của quần chúng, anh có nhiều sáng kiến theo sát đường lối của Đảng, sát chủ nghĩa Mác-Lênin.
Năm 1936, khi Mặt trận Bình dân thắng cử ở Pháp thì anh Ninh là người có sáng kiến tổ chức Đông Dương Đại hội, sáng kiến đó đã được Đảng chấp nhận và từ đó phong trào dân tộc dân chủ đã lên cao trào trước nay chưa từng thấy. Sau khi Đông Dương Đại hội bị thực dân Pháp cấm thì phe trốtkít trở mặt. Bây giờ đọc lại cuộc bút chiến sôi nổi kéo dài giữa Nguyễn An Ninh và Tạ Thu Thâu (thủ lĩnh trốtkít) trên báo La Lutte (Tranh đấu) năm 1937, càng thấy Ninh sâu sắc, vững vàng như thế nào khi anh khẳng định đường lối Mặt trận dân tộc dân chủ của Đảng, bác bỏ chủ trương quá khích “mặt trận vô sản” của Tạ Thu Thâu.
* * *
Tôi quen anh Ninh năm 1933, lúc tôi ở Nga mới về phụ trách Xứ ủy Nam Kỳ. Sang năm 1935 tôi có nhiều dịp làm việc với anh Hà Huy Tập và anh Ninh tại ngôi nhà anh Ninh có khu vườn xoài rộng mênh mông ở Trung Chánh - Hóc Môn. Nhân đây tôi muốn góp phần làm sáng tỏ một vài vấn đề liên quan đến anh Ninh mà cho đến nay vẫn còn một số hiểu biết thiếu chính xác.
Về vấn đề “Đảng Thanh niên Cao vọng”: Theo tôi, từ trước tới nay chưa có một tài liệu nào được công bố của Đảng Thanh niên Cao vọng. Còn tổ chức “Thanh niên Cao vọng” mà nhiều người thời đó quen gọi là “Hội kín Nguyễn An Ninh” là do Nguyễn An Ninh và Mai Văn Ngọc sáng lập, thật sự chính là một tổ chức quần chúng yêu nước do Ninh tập hợp theo từng cụm địa phương, không có hệ thống tổ chức huyện, tỉnh, trung ương, không có lãnh tụ. Anh Ninh giải thích: lực lượng quần chúng này vẫn sống tại gia đình, khi nào anh Ninh cần huy động thì số quần chúng này tham gia. Lực lượng này đã ra mắt lần đầu tiên vào năm 1927 trong buổi lễ cúng giáp năm ngày mất của cụ Phan Châu Trinh tại nghĩa địa Tân Sơn Nhất vào ngày 14-3-1927. Lực lượng quần chúng này còn được anh Ninh huy động vào những năm 1933, 1935, 1936 khi anh Ninh tổ chức mít tinh vận động bầu cử Hội đồng Thành phố và trong phong trào Đông Dương Đại hội.
Về hai bức thư của anh Ninh mà bọn “Lập hiến” cho công bố trên báo chí của chúng: Năm 1926 vụ anh Ninh bị bắt lần đầu tiên đã gây chấn động cả Nam Kỳ, phong trào quần chúng đòi thả Nguyễn An Ninh nổ ra rầm rộ. “Đảng Thanh niên An Nam” (Jeune Annam) của Trần Huy Liệu dự định tổ chức tổng bãi công nếu nhà cầm quyền không thả Nguyễn An Ninh, còn bọn thực dân thì chuẩn bị đàn áp nếu xảy ra tổng bãi công. Anh Ninh rất lo lắng cho phong trào vừa mới được nhen nhúm từ khi anh đón cụ Phan ở Pháp về. Khi anh em vào thăm anh đều nhắn nhủ bên ngoài không được vì Nguyễn An Ninh mà manh động. Trong Khám Lớn Sài Gòn, anh nghĩ cách viết thư cho Thống đốc Nam Kỳ và Tổng Biện lý để xin hưởng án treo. Trong nội dung hai bức thư “giả dại để qua ải”, anh hứa sẽ về quê tiếp tục sống ẩn dật như ba tháng trước đó anh đã làm. Theo chị Ninh kể lại, thật ra thì trong 3 tháng trước khi bị bắt giam, anh không có mặt ở Sài Gòn: ngày thì anh đi vận động quần chúng cho tổ chức Thanh niên Cao vọng, ban đêm anh thức để viết báo và nghĩ cách đăng Tuyên ngôn Cộng sản của Mác-Ăngghen trên báo Chuông Rè. Anh tính viết thư như vậy cho bọn cầm quyền để nó thả ra, để nó không đàn áp phong trào.
Nhưng anh đã tính sai nước cờ, điều mà anh Ninh không ngờ là bọn thực dân đã lợi dụng hai bức thư của anh để đánh gục anh. Chúng giật dây cho bọn “Lập hiến” công bố hai bức thư kèm theo lời bình rằng Nguyễn An Ninh đã đầu hàng và từ bỏ cách mạng. Trong hồi ký của Trần Huy Liệu cũng có rút ra bài học thất bại cho “Đảng Jeune Annam” - và tôi nghĩ đó cũng là bài học cho cả anh Ninh.
Đọc những lời bình luận xuyên tạc của bọn “Lập hiến”, lúc đó bản thân tôi vẫn tin tưởng ở anh Ninh, tin rằng anh Ninh nhất định không đầu hàng. Nếu anh Ninh có lúc nào đó xuống tinh thần thì theo tôi không phải là lúc viết hai bức thư ấy. Vì sự thật là sau khi ra tù, anh vẫn tiếp tục hoạt động, mà còn hoạt động hăng nữa là khác, anh không có một ngày nghỉ ngơi. Bốn lần vào tù tiếp theo đã chứng minh điều đó.
Có chăng anh thối chí là vào năm 1937, sau đợt bút chiến nảy lửa với Tạ Thu Thâu, chị Ninh kể lại là anh đã rủ chị cùng anh sang sống ở Thuỵ Sĩ để anh viết sách, nhưng chị không nghe.
Điều tôi muốn nói sau cùng là nhân cách Nguyễn An Ninh. Anh là một nhà Tây học, một trí thức lớn, một học giả uyên thâm, đã đi nhiều nước, giao du với nhiều nhân vật nổi tiếng thế giới. Anh thừa sức có một cuộc sống nhung lụa nếu anh muốn, nhưng anh đã không màng miếng đỉnh chung. Từ Paris trở về, anh đã gắn liền cuộc đời mình với vận mạng của dân tộc, vì vậy mà mọi tầng lớp nhân dân yêu kính anh. Con người giàu nhiệt huyết và năng động đó cũng rất lãng mạn, nhiều suy tư, thích làm thơ, sống lạc quan dù nhiều lần phải vào tù ra khám, lắm khi phải lặn lội nắng mưa ngủ đình ngủ chợ, tự bán báo, bán dầu cù là để đi vào quần chúng. Hơn hai mươi năm anh hiến dâng đời mình cho Tổ quốc thì quá nửa sống trong lao tù thực dân. Con người đó dữ dội với bọn thống trị Tây tà, khiến chúng mất ăn mất ngủ, đấu tranh hết sức kiên cường dám tuyệt thực dài ngày đến cận kề cái chết. Anh đã kiên quyết từ chối, không khoan nhượng đầu hàng khi bọn phát xít Nhật cho người ra Côn Đảo thuyết phục, nếu anh chịu hợp tác lập chính phủ thân Nhật thì chúng sẽ đưa anh về đất liền chữa trị, trong lúc bệnh tình của anh đã bước sang giai đoạn trầm trọng.
Điều tôi muốn nói ở đây là nhân cách của anh trong quan hệ với bạn bè đồng chí, với gia đình vợ con, anh khiêm nhường, hiền từ và nhân hậu. Anh san sẻ bát cơm manh áo, dốc cạn đồng xu cuối cùng cho người khổ hơn anh. Anh nhường từng lon nước, chỗ nằm cho bạn tù. Anh đem cả tình thương, tri thức dìu dắt cho những ai còn lầm lỡ, bất hạnh kém may mắn hơn anh. Ai đã gặp anh một lần đều yêu kính anh, một nhân cách lớn lắm, một tấm gương sáng ngời cho thời đại này. Anh là một con người hầu như không có cá nhân chủ nghĩa, không có toan tính cho mình, lúc nào cũng sẵn sàng hi sinh cái riêng vì nước vì dân, vì anh em bè bạn, vì gia đình vợ con. Tự thân cuộc đời anh đã đẹp, không cần chúng ta phải tô điểm gì thêm. Một con người như vậy không dễ có đâu, bình dị nhưng vĩ đại lắm.
Ngày 15-9-2001
----------
* Bài trích trong sách Nguyễn An Ninh - tác phẩm (Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 2009). Đầu đề do Hồn Việt đặt.