Nguyễn Tuân với thú hát Ả đào

Nguyễn Tuân rất mê hát Ả đào. Hồi còn trẻ ở Hà Nội, ông thường đi hát Ả đào cùng Vi Huyền Đắc, Thế Lữ, Lê Đại Thanh… tại các xóm cô đầu Khâm Thiên, Vạn Thái. Trong tập tùy bút, ông đã “tự bạch” có khi ông “ăn dầm nằm dề” cả tháng tại các nhà hát cô đầu, tối nào cũng cầm chầu, nghe hát và say túy lúy.

Vi Huyền Đắc, nhà viết kịch nổi tiếng, khi còn sống ở Sài Gòn đã kể rằng: “Đi hát với Nguyễn Tuân tốn kém lắm! Ngoài tiền chi cho chầu hát còn phải đền cho chủ nhà những ly chén do Nguyễn Tuân trong cơn say đã làm vỡ”.

Do có duyên nợ với tiếng đàn, tiếng phách, tiếng ca, chén rượu như vậy mà Nguyễn Tuân đã viết ra được quyển Chùa đàn (1) năm 1945 được coi là một tác phẩm có giá trị trong đó tiếng hát của cô Tơ, tiếng đàn của Bá Nhỡ như còn vang ngân, như còn đọng lại trong tâm hồn của những ai đồng điệu.


Bìa tác phẩm Chùa đàn, NXB Tân Việt, năm 1947. Ảnh TL.

Những người không đồng điệu thì cho rằng tác giả đã kể một câu chuyện có nhiều yếu tố phi lý, hoang đường, khó tin, hơn thế nữa còn mang tính kinh dị ma quái như trong Liêu Trai.

“Tại ấp Mê Thảo, chủ ấp là Lãnh Út còn trẻ, có vợ bị chết trong một tai nạn xe lửa bị lật. Quá thương vợ, cậu đâm ra căm ghét cuộc sống văn minh cơ khí, bèn đem bán hoặc cho hết những vật dụng có máy móc trong nhà. Cậu cũng không lo gì đến công việc trong ấp nữa.

May có Bá Nhỡ giúp đỡ nếu không ấp Mê Thảo cũng đã không còn nữa. Bá lại còn chăm sóc tinh thần cho cậu Lãnh Út nữa nhưng cậu vẫn âu sầu buồn bã, cứ uống say li bì rồi khóc thương vợ.

Bá càng lo bèn đi tìm bọn con hát đến để diễn mua vui cho cậu Lãnh Út nhưng cậu lại chán các cuộc vui và không buồn uống rượu nữa.

Từ khi thôi không uống rượu, Lãnh Út ngày đêm cứ ngồi một chỗ như nhà sư thiền định. Rồi một đêm mưa gió cậu lại đòi uống rượu và sai Bá đi tìm cô Tơ về hát cho cậu nghe. Bá phải về tận quê của cô Tơ. Chồng cô là Chánh Thủ đã mất. Cô Tơ chối từ nói rằng từ ngày chồng cô mất đi, cô đã giải nghệ không đi hát nữa.

Bá về lại ấp Mê Thảo. Nghĩ mình trước đây cũng là một tay đàn lão luyện, Bá bèn đón một người đàn giỏi về luyện lại tay nghề cho mình rồi kiếm mua một cây đàn đáy cũ cầm đến nhà cô Tơ dạo thử một khúc cho cô nghe. Cô Tơ tuy phục tài đàn của Bá nhưng vẫn từ chối vì trót đã có lời thề với chồng rồi.

Bá liền kể tình trạng bệnh của cậu Lãnh cho cô nghe. Cô cũng kể thực cho Bá biết từ khi chồng chết đã thề không đi hát nữa và nếu có ai cầm cây đàn đáy của chồng cô mà gảy thì sẽ mất mạng vì có yểm bùa gì đấy.

Bá Nhỡ về lại ấp, nghĩ rằng nếu như lời cô Tơ nói, hễ ai cầm cây đàn của Chánh Thủ mà phải chết thì cũng liều thử một chuyến xem sao.

Cô Tơ sau đó nằm mơ thấy chồng về báo mộng cho biết sẽ có người đến lấy cây đàn ở bàn thờ để gảy và hắn sẽ chết để thế mạng cho ông được đầu thai lên trần thế làm người trở lại. Cô nghe vậy mà giật mình kinh sợ.

Khi thấy Bá Nhỡ lại đến, nhớ tới giấc mơ, cô lén vào trước bàn thờ khấn chồng để xin tha mạng cho Bá Nhỡ nhưng chồng cô không chấp thuận.

Khi Bá Nhỡ vào gian thờ ôm đàn ra thì cậu Lãnh Út cũng vừa tới để cầm chầu. Cô Tơ hát, Bá Nhỡ đàn nhưng rồi chàng đã gục ngã xuống và cây đàn cũng nổ tung và vỡ tan ra. Lãnh Út thì thiếp đi bên xác của Bá Nhỡ cho đến khi tỉnh giấc mới cho người khiêng xác của Bá về ấp Mê Thảo để chôn cất. Lãnh Út từ ấy thề bỏ rượu và đàn hát.

Một năm sau, Chùa đàn được dựng lên ở trong ấp. Cô Tơ giữ việc kinh kệ. Lãnh Út bán ấp, chỉ giữ lại hai mẫu cho chùa”.

Nhiều độc giả yêu thích văn chương Nguyễn Tuân đã đánh giá Chùa đàn là một tác phẩm có giá trị mà ai xem cũng phải thấy Lãnh Út, Bá Nhỡ hay cô Tơ, những nhân vật nghệ sĩ tài hoa ấy, có thể nói tất cả đều là Nguyễn Tuân, người rất sành về các ngón nghề của hát ả đào, của cây đàn đáy (2) và của chiếc trống chầu.


Hát Ả đào.

Chính vì những lẽ ấy mà chúng ta không lấy làm lạ khi thấy Nguyễn Tuân mê hát ả đào và coi ca trù là một nghệ thuật cổ nhạc vô cùng cao quý.

Hoàng Cầm, trong một số báo Văn nghệ xuất bản năm 1957 đã kể lại chuyện Nguyễn Tuân cầm chầu cho bà Phúc hát bài Tỳ bà hành.

Trong số các văn nghệ sĩ ngồi nghe có mấy nhà văn trẻ đã cười nói làm mất sự yên lặng. Nhà văn Nguyễn Tuân đã vút mạnh roi chầu vào mặt trống để cảnh cáo, rồi khi bà Phúc hát xong, ông đã tức giận đứng phắt dậy, bỏ ra về thẳng, không thèm nói với ai một lời.

Hôm sau, Hoàng Cầm lại nhà Nguyễn Tuân, chưa kịp hỏi lý do thì đã bị ông la ngay rằng:

- Từ rày mày có định tổ chức cái gì mà có hát ca trù thì đừng mời mấy “thằng nhóc” ấy nữa!

Qua câu chuyện ấy, chúng ta thấy nhà văn Nguyễn Tuân đã coi trọng ca trù như thế nào. Đấy là một thể nhạc thính phòng cao cấp, chỉ những người có trình độ văn hóa và có ham thích môn nghệ thuật ấy mới hiểu nổi.

Có điều đáng ngạc nhiên là Nguyễn Tuân chỉ viết văn, nổi tiếng là ở mấy tập tùy bút, bút ký chứ không thấy ông làm thơ. Đôi khi trong các bài viết của ông cũng thấy có xen vào một vài câu thơ như trong Những ngày Thanh Hóa:

Đến đây là đỉnh đèo Ba Dội,
Cạn chén đưa anh một chén đầy.
Trước mắt bây giờ là bỏ cả,
Chung quanh chỉ một con tàu say...

Nguyễn Tuân thường say như vậy nhưng có điều thật lạ là ông đã làm một bài hát ả đào (3) nói về cái say của mình - cả mưỡu và hát nói - vào năm 1931 mà ít người được biết:

SAY

Hạnh Hoa (4) thôn đã đây rồi,
Chơi đi cho thỏa một đời thông minh.
Nợ men gấp mấy nợ tình,
Cõi trần ướm hỏi Lưu Linh mấy chàng?

胸中有李白

Hung (5) trung hữu Lý Bạch,
Đã say sưa mặc quách thế nhân cười.
Mượn màu men giả dạng làng chơi,
Cơn chếnh choáng coi ra trời đất nhỏ.
Ai muốn lấp sầu thiên vạn cổ,
Cùng ta hãy cạn một hồ đầy.
Doành nước mây, một tớ một thầy,
Vành gió bụi: Ai tỉnh? Ai say? Ai ngất ngưởng?

倒 破 愁 城 詩 是 將

長 追 窮 賊 酒 爲 兵

Đảo phá sầu thành thi thị tướng,
Trường truy cùng tặc tửu vi binh
(6).
Rượu ngà say quên lẫn cả mình,
Khi túy lúy thoát hình ngoài cõi tục.
Mặc ai đàm tiếu, ai trong đục,
Tỉnh mà chi
(7) cho nhọc chẳng khề khà.
Nợ nần gỡ mãi không ra.

Đọc bài hát ấy chúng ta thấy đúng là Nguyễn Tuân, con người mê ca trù đã dựng cả một Chùa đàn để thỏa cho cái thú của mình. Nhưng đó là chuyện Nguyễn Tuân trước Cách mạng Tháng Tám, còn sau đó, từ ngày đi kháng chiến, thì ông đúng là nhà văn - chiến sĩ đi chiến dịch với bộ đội, ở dưới mưa bom B52 mà viết Ký chiến tranh.

Vả lại sau này làm gì còn Xóm ả đào Khâm Thiên mà Mỹ đã trút B52 vào Khâm Thiên như Nguyễn Tuân viết trong Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi.


(1)

Chùa đàn đã được Nguyễn Tuân viết năm 1945. Sau đến năm 1946 ông đã viết thêm phần mở đầu gọi là Dựng và phần kết gọi là Mưỡu. Truyện Chùa đàn cũ được đổi tên thành Tâm sự của nước độc.

(2)

Trong phim Mê Thảo - Thời vang bóng, chiếc đàn đáy đã bị thay thế bằng cây đàn nguyệt. Đây là một sự nhầm lẫn quá nặng vì ca trù phải gảy cây đàn đáy, còn hát chầu văn mới dùng cây đàn nguyệt.

(3)

Bài hát ả đào này, theo Tô Kiều Ngân, đã được đăng trên mấy tờ báo ở nước ngoài và ông đã phổ biến lại trên mạng vào ngày 17/2/2005.

(4)

Hạnh Hoa: Tên một thôn nổi tiếng về rượu ngon mà Đỗ Mục đã nói tới trong bài Thanh minh.

(5), (7)

Hung trung đã bị chép sai thành “Hưng trung”“Tỉnh mà chi” đã bị chép sai thành “Tỉnh mà cho”.

(6)

Muốn phá thành sầu phải mượn thơ làm vị tướng,
Muốn đuổi giặc cùng phải mượn rượu làm quân lính.

Bài liên quan:
NGUYỄN QUẢNG TUÂN