Do sở hữu phương tiện chiến tranh tối tân, giặc Pháp và giặc Mỹ khó đánh hơn hẳn giặc Tàu. Trong cuộc đấu tranh lâu dài và vô cùng gian khổ chống hai giặc ấy, phụ nữ Việt Nam đã đóng góp không biết bao nhiêu, người bất chấp nguy hiểm kiên trì hoạt động bí mật trong lòng địch, người ngày đêm xông pha dưới bom đạn cực kỳ ác liệt, năm này qua năm khác, cống hiến trọn tuổi thanh xuân của mình cho Tổ quốc… Có những người để lại tên tuổi như Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Thị Định, Mạc Thị Bưởi, Nguyễn Thị Chiên, Võ Thị Sáu, Đinh Thị Vân, Phan Thị Ràng, Trần Thị Lý (hai người trùng tên), Mai Thị Nương, Nguyễn Thị Suốt, Trần Thị Kim Cúc, Ngô Thị Tuyển, Nguyễn Thị Vân Liệu, Nguyễn Thị Kim Huế, Nguyễn Thị Nê, La Thị Tám, Lê Thị Hồng Gấm v.v. Vô số người khác mãi mãi khuyết danh. Tất cả đã gây ấn tượng thật sâu đậm nơi những người được gặp, từ đó trở thành nội dung của không biết bao nhiêu thơ văn. Hãy ôn lại một số lời ghi.
(Nguyễn Thị Minh Khai)
(Nguyễn Thị Chiên)
(Nguyễn Thị Định)
(Võ Thị Sáu)

(Mẹ Suốt chèo đò trên sông Nhật Lệ) |
(Anh hùng LLVT nhân dân, liệt sĩ Phan Thị Ràng)
Đây một nữ du kích thời đánh Pháp: “Chị tổ trưởng ngồi tiếp chuyện tôi, mới độ mười chín đôi mươi (…) Khăn vuông mỏ quạ, yếm trắng bong, áo nâu dài, hai vạt trước lỏng lẻo bắt chéo nhau bên ngoài hai dải thắt lưng xanh, quần nái đen buông đến tận mắt cá chân. Đấy là lúc nghỉ ngơi, không phải lúc đánh giặc, các chị vẫn duyên dáng lắm. Và cũng thùy mị nữa. Khuôn mặt trái xoan rất dịu dàng. Da nhỏ, mơn mởn, trắng hồng. Mắt bồ câu. Miệng nhỏ xinh xinh. Mỗi khi cười, đôi má bầu bầu lúm đồng tiền (…) Tôi không biết lúc xông vào trại giặc thì chị có dữ dội, ngổ ngáo không. Lúc này đây, chị cũng khép nép như bất cứ cô thôn nữ đẹp nào ngồi trước mặt đàn ông. Trong khi nói chuyện, đôi mắt chị luôn luôn nhìn xuống, đôi bàn tay trắng mịn đặt trên đùi. Những ngón tay búp măng muồn muột chít vào nhau. Những bàn tay nhỏ nhắn này đã từng cầm súng bắn Tây, ném lựu đạn vào Tây, hoa mã tấu lăn xả vào Tây. Nó vẫn không kém mềm mại chút nào. Trước kia, hẳn là nó đưa thoi rất nhẹ nhàng. Và ẵm em rất khéo”.(NC)
Đây một nữ du kích như trên nhưng sa cơ, bị giặc Pháp bắt: “… cùng bác H.T.N. đến thăm mộ (…) sau đó (...) thăm gia đình cô Bưởi (…) nghe khá nhiều chuyện (…) Trong một trận càn, giặc bắt được cô (…) tra tấn rất dã man (…) rồi xẻo hai vú, giết cô ngay tại cầu ao nhà mình (…)“Trưa nay em đến thăm cô / (…) / Cô ơi! / Sông nước gọi tên / Nắng mưa phục kích, trăng lên đánh đồn / Thương cô sóng cuộn quanh cồn / Nhát dao giặc giết... / em còn thấy đau!”.”.(TĐK)
Nữ Anh hùng Mạc Thị Bưởi (1927-1951)
Đây một nữ giao liên bị bắt ở Quảng Nam năm 1956: “Trong những năm khủng khiếp ấy (…) những người (…) sa vào tay địch đều bị chúng tra khảo cực ác hòng phá tan cơ sở ta (…) Trần Thị Lý (…) bị tra tấn bằng nhiều cách rất dã man nhưng kiên cường chịu đựng (…) Một số anh em đã tổ chức cứu (…) đưa chị ra Miền Bắc (…) “Cho tôi hôn bàn chân em lạnh ngắt / Cho tôi nâng bàn tay em nắm chặt / (…) / Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng / Em đã sống lại rồi, em đã sống! / Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung / Không giết được em, người con gái anh hùng!”.”.(TH)
(Anh hùng Trần Thị Lý)
Sang thời đánh Mỹ. Đây một đội nữ pháo binh ở Long An: “Các em đi / nòng pháo in ráng chiều cháy đỏ / (…) / Ôi những em gái quê hương (…) / Từ sâu thẳm đêm đen / một góc trời bừng chớp lửa / (…) / Đồn giặc cháy rồi! (…) / Đêm nay lại nghe tiếng pháo gầm vang / phía trời xa lắc / (…) / Ôi, có phải gió nổi bốn nghìn năm góp về / một mùa xuân bão táp / đã đưa các em đi / làm ánh chớp giữa trời…”.(NCH)
Đây một đội nữ pháo binh khác ở Quảng Trị: “Ai bảo em không vai sắt chân đồng / Vác pháo em đi mấy mùa chiến dịch / Đêm hò hẹn là những đêm pháo kích / Trăng hạ tuần soi nòng pháo nghiêng nghiêng / Lửa dựng ngút trời Dốc Miếu, Cồn Tiên / Pháo con gái nhưng chẳng hiền với giặc / Tầm hướng chỉnh rồi vén cao mái tóc / Ai biết trận này là trận bao nhiêu?”.(KQT)
Đây nữ chiến sĩ cũng ở vùng “Đất lửa”, người ngắm bắn bộ binh Mỹ, người chờ đánh máy bay Mỹ: “Có những o trẻ tuổi vai đeo K-52 cùng kính ngắm, lẫn lộn với bộ đội, lách mình trong chiến hào bắn tỉa từng tên giặc, mặt tỉnh bơ như không có chuyện gì xảy ra cả (…) những o dân quân đầu đội mũ sắt, ngồi đàng hoàng trong bệ súng cao xạ (…) Mình vô cùng cảm phục những người con gái Vĩnh Linh này”.(HTL)
Đây nữ thanh niên xung phong đang sẵn sàng lấp hố bom sửa đường: “... trông vẻ dịu dàng ánh chút tinh nghịch của tuổi trẻ, xen nét dạn dày bom đạn, sương gió Trường Sơn (…) nụ cười hồn nhiên (…) đôi mắt (…) hiền hậu, nhìn sâu đọng của các cô (…) chúng tôi thấy lòng mình lâng lâng một tình cảm thiết tha thương mến, cảm phục”.(HTL)
Đây vẫn “những cô gái Trường Sơn”: “Tôi viết ngợi ca những người con gái / Thuở đạn bom đã đến với chiến trường / (…) / Cái chết rập rình vẫn cứ hát ca / Cũng gốc cây chiếc võng mắc làm nhà / Nắm gạo sấy miếng lương khô làm bữa / (…) / Tranh cướp từng giây với máy bay thù / Dám lao vào nơi bom đạn mịt mù / Làm cọc tiêu chỉ đường cho xe chạy / Ai đã đi qua Trường Sơn thuở ấy / Đến nơi đâu cũng nghe thấy tiếng cười / Nét dịu dàng tuổi mười tám đôi mươi / Mảnh mai thế mà cứng hơn sỏi đá...”.(ĐC)
“Cọc tiêu” tự trồng xuống đất ven đường, và có khi tự trồng xuống nước: “Ta còn nợ một chiều (…) / Em làm cọc tiêu ngập nước giữa ngầm / Máy bay thù rít như xé vải / Bình thản giăng hàng, cười nói cứ như không…”.(PVĐ)
Đây một “cọc tiêu” không bao giờ còn trồng ở đâu nữa, ngoại trừ trong tim người: “Ngày nào tôi cũng gặp em / Trên con đường ấy thân quen đã từng / (…) / Trên đường ra trận đất cày đạn bom / Nhạt nhòa nắng quái hoàng hôn / Xe như hụt hẫng: không còn dáng em! / Xuống xe đưa mắt tôi tìm / Hai dòng nước mắt chị em chảy dài: / - Nó vừa đi buổi sớm mai! / Bên trên nấm mộ còn đài xuyến chi / Lắc lư chao chát xe đi / Còn tôi chao chát mất đi dáng người…”.(TS)
“Em” đi có khi hóa thành “một khoảng trời”: “Chuyện kể rằng (…) / Ðể cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương / Cho đoàn xe kịp giờ ra trận / Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa / Ðánh lạc hướng thù, hứng lấy luồng bom... / Ðơn vị tôi hành quân qua con đường mòn / Gặp hố bom nhắc chuyện người con gái / (…) / Tôi nhìn xuống (…) / (…) / Em (…) / Như khoảng trời đã nằm yên trong đất / Ðêm đêm, tâm hồn em tỏa sáng / Những vì sao ngời chói, lung linh / Có phải thịt da em mềm mại (…) / Ðã hóa thành những làn mây trắng / (…)”.(LTMD)
Những gương hy sinh phi thường ấy làm sao ai quên được: “Người lái xe đi suốt đời còn lanh lảnh trong tai tiếng còi gọi dừng xe đêm ấy / Nghìn tấn bom dội xuống người con gái giao thông toàn thân thành đuốc cháy / Chị vẫn đứng sững bên đường điều khiển chuyến xe đi…”.(CLV)
Chị em có khi đi một lúc ba người: “anh qua cây số mười năm / không ai chặn xe đòi thư như ngày trước / ba ngôi mộ đội hình hàng dọc / tán cây che chưa kín chỗ em nằm / vẫn nhớ chỉ là những nấm đất không / chúng anh đắp vội vàng sau trận bom toạ độ / (…) / như có tiếng hát thì thào trong gió / như có tiếng chân khoả nước dưới khe / anh ngồi lặng kề ba nấm cỏ / biết gọi thế nào gửi chút gió hương…”.(NHH)
Có khi đến mười người như ở ngã ba Đồng Lộc: “Khi con về quê con nhớ viếng thăm / Mộ người cô kề bên đường đỏ / Các cô như còn đứng đó / Chờ lấp hố bom / Đường thông xe các cô mới đi nằm / Các cô để lại tuổi thanh niên / Mười chín, hai mươi, hăm hai tuổi / Cho đất nước, quê hương / Hồn trong như suối / Bình minh đời sáng rực vừng dương...”.(HCN)
Lại có khi đến mười một, như ở Truông Bồn ngày 31-10-1968. Ngẫu nhiên, cũng như các cô Đồng Lộc đã in bóng toàn đội vào một tấm ảnh nổi tiếng, khoảng năm tháng trước ngày hy sinh, chị em Truông Bồn đã in bóng mình vào thơ: “Ngoằn ngoèo, lượn những đường bom / Đoàn xe lao đỉnh Truông Bồn giữa khuya / Hố sâu hun hút bốn bề / Màn đêm thăm thẳm như che mắt nhìn / Bỗng từ đâu vụt hiện lên / Một hàng tiêu mọc đường đêm trắng loà / (…) / Sững sờ tay vẫy trong đêm / Áo em trắng quá anh nhìn thêm thương / (…) / Giọng cười vang đỉnh truông khuya / Tên dù chưa biết lòng nghe bồi hồi / Xe đi giục vội cuối trời / Chào nhau không tỏ mặt người giữa đêm…”.(QH)
Nữ thanh niên xung phong ngay cả khi không làm nhiệm vụ đặc biệt nguy hiểm vẫn dễ dàng khiến “các anh” phải nể vì. Đâymột “em” đang tải đạn dưới mắt một “anh” cùng làm: “Tôi đặt lên đó hòm đạn bốn mươi cân / Hình cánh hoa lan trên vai áo trắng ngần / Là vết xước đinh hòm vừa mới xẻ / Ôi vai em, có phải vai bà Nữ Oa không nhỉ / Dẫu chẳng vá trời cũng đắp được Trường Sơn”.(PTD)
Về những năm tháng không bao giờ quên được, chính “các chị”, “các em” cũng có người ghi lại chút ít .
Đây một cựu nữ thanh niên xung phong thơ kể chuyện cùng chị em “đuổi theo” bộ đội: “Giặc đến nhà gái trai đều ra trận / Em theo anh nối bước dặm Trường Sơn / (…) / Phía Trường Sơn chân nối chân bước gấp / (…) / Em áo lính cùng anh áo lính / (…) / Em ra trận đuổi theo anh phía trước / (…) / Em đi sau em nối bước mỗi ngày / Cuốn sổ nhỏ ghi từng dòng nhật ký / (…) / Sông đổ sóng quân đi như nước chảy / Bàn chân ướm bàn chân bàng hoàng trang giấy / (…) / Em theo anh xẻ dọc Trường Sơn…”.(LTM)
Vẫn nữ thanh niên xung phong có tài làm thơ ấy vô cùng xúc động hồi tưởng người bạn đã thành huyền thoại: “Lần ấy chị hong áo cưới nguyên hồ / Áo mặc khi phá bom cảm tử / (...) anh chưa lần ngắm yêu thương / (...) / Trong mộ chị có gì đâu / thân thể chị đã hòa trong núi sông”.(LTM) Những người tình nguyện làm cái việc cực kỳ nguy hiểm đều được đơn vị tổ chức “truy điệu” trước khi đi. Có người mặc chiếc áo mới cất trong ba-lô cho ngày cưới chưa đến mà đi.
Đây lời một cựu nữ lái xe Trường Sơn: “Những lúc lái xe qua ngầm vào mùa mưa, nước từ trên thác tràn xuống cuồn cuộn, nhìn đã thấy chóng cả mặt (…) Tuyến đường 12 (…) đoạn Cổng Trời vượt sang Lào (…) những cua dựng đứng (…) một bên là núi cao, một bên là vực sâu (thế mà) xe đi ban đêm bằng “đèn rùa” lắp dưới gầm (…) Chị Phạm Thị Phàn dẫn đầu đoàn xe hơn chục chiếc của các lái xe nam thẳng tiến về Cổng Trời trong ánh sáng hỏa pháo và tiếng động cơ máy bay địch gầm rú trên đầu, những ánh chớp dài lóe sáng, những tiếng nổ kinh hoàng của bom, rốc-két, những làn đạn xối xả”.(VTKD)
Đây một nữ bác sĩ quân y đang ở tiền tuyến thơ lên tâm sự mình: “Tôi đứng đây giữa núi rừng lộng gió / Mưa đan dày trùm cả rừng cây / (…) / Ai biết chăng dù ta có chết / Cho ngày mai cho đất nước tự do / Thì trong ta vẫn trọn niềm mơ / (…) / Đường đi bao nỗi gian nan / Bàn chân lội suối băng ngàn ta đi / Chông gai nào có sá gì / Mắt nhìn vẫn một hướng về ngày mai…”.(ĐTT) Chị rồi không bao giờ về nhà, nhưng sẽ sống mãi trong lòng dân tộc.
*
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng biểu dương: “Từ đầu thế kỷ thứ nhất (…) cho đến ngày nay, mỗi khi nước nhà gặp nguy nan, thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên, góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc”.(HCM)
“Ngày nay”… Trong thế kỷ 20 trên mặt địa cầu thiếu gì nơi khói lửa tơi bời. Chẳng có ở đâu người phụ nữ đóng góp trực tiếp vào nỗ lực quân sự đáng kể gần bằng ở Việt Nam. Gái Việt không chỉ đặc biệt oai phong vào thời xa xưa, mà mới cách nay chưa lâu vẫn hãy còn oai nhất thế giới!
(Sang thế kỷ 21, dân tộc phải chống một thứ giặc khác cũng rất nguy hiểm. Trong cuộc chiến đấu với Cô-vít 19, phụ nữ Việt Nam một lần nữa lại tỏ ra xuất sắc.)
Thu Tứ
Viết năm 2008
Sửa tháng 10-2022
_________
BNL: Bình Nguyên Lộc, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Sài Gòn, 1971;
CLV: Chế Lan Viên, bài thơ “Nghĩ suy 68”;
CQT: Chu Quang Trứ, Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, nxb. Mỹ Thuật, 2002;
DĐMS: Dương Đình Minh Sơn, Văn hóa nõ nường, nxb. Khoa Học Xã Hội, 2008;
ÐDA: Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, 1938;
ĐTT: Trong Nhật ký Đặng Thùy Trâm, nxb. Hội Nhà Văn, 2005.
ĐC: Đức Chính, bài thơ “Những người con gái tiền phương”;
HVT: Hà Văn Tấn, “Lời cuối sách”, Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam, nxb. Khoa Học Xã Hội, 1994;
HC: Hoàng Cầm tác phẩm – Văn xuôi, nxb. Hội Nhà Văn, 2004;
HTL: Nhật ký Hoàng Thượng Lân, nxb. Hội Nhà Văn, 2005;
HCM: Hồ Chí Minh toàn tập, nxb. Chính Trị Quốc Gia, tập 12, 2000;
HCN: Huy Cận, bài thơ “Ngã ba Đồng Lộc;
KQT: Khuất Quang Thụy, bài thơ “Qua cầu treo”;
LTMD: Lâm Thị Mỹ Dạ, bài thơ “Khoảng trời hố bom”;
LNC: Lê Ngô Cát và Phạm Ðình Toái, Ðại Nam quốc sử diễn ca, thế kỷ 19;
LTM: Lê Thị Mây, Lửa mùa hong áo, nxb. Quân Đội Nhân Dân, 2003;
LV: Lê Vượng chụp ảnh, Việt Nam điêu khắc dân gian thế kỷ XVI-XVII-XVIII, nxb. Ngoại Văn, 1975;
NBT: Nguyễn Bá Trác, Hạn mạn du ký, 1921;
NC: Nam Cao tác phẩm, tập 2, nxb. Văn Học, 1977;
NCH: Nguyễn Chí Hiếu, bài thơ “Các em đi”;
NHH: Nguyễn Hữu Hà, bài thơ “Tưởng niệm”;
NHL: Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, nxb. Văn Học, 1992;
NQV: Nguyễn Quốc Văn, “Một đêm chèo nghiêng ngả”, trên trang Mạng không nhớ tên;
NVH: Nguyễn Văn Huyên, Văn minh Việt Nam, 1944, nguyên tác tiếng Pháp, bản dịch Ðỗ Trọng Quang, nxb. Hội Nhà Văn, 2005;
PN: Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, nxb. Văn Hóa – Thông Tin, 1998;
PTD: Phạm Tiến Duật, bài thơ “Nghe hò đêm bốc vác”;
PVĐ: Phạm Văn Đoan, bài thơ “Nợ Trường Sơn”;
QH: Quang Huy, bài thơ “Mười hai cô gái Truông Bồn” làm tháng 5-1968. Chính xác là 11, vì chị Trần Thị Thông sống sót;
TA-1: Toan Ánh, Gái đẹp xứ Bắc, Sài Gòn, không biết năm in.
TA-2: Toan Ánh, Hội hè đình đám, Sài Gòn, 1974.
TC: Trương Chính và Đặng Đức Siêu, Sổ tay văn hóa Việt Nam, nxb. Văn Hóa, 1978;
TĐK: Trần Đăng Khoa, bài thơ “Em dâng cô một vòng hoa” và sách Hầu chuyện Thượng Đế;
TH: Tố Hữu, bài thơ “Người con gái Việt Nam” và hồi ký Nhớ lại một thời;
TQV-1: Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, nxb. Văn Hóa Dân Tộc, 2000;
TQV-2: Trần Quốc Vượng, Lịch sử Việt Nam, tập I, 1983 (nhiều tác giả);
TNT: Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, nxb. TPHCM, 2001;
TS: Thanh Sơn, bài thơ “Hoa xuyến chi”;
TTS: Trần Thị Sen, hồi ký Những dòng kỷ niệm…;
VNP: Vũ Ngọc Phan, “Mấy ý kiến sơ bộ về dân ca quan họ Bắc Ninh”, Qua những trang văn, nxb. Văn
Học, 1976;
VTKD: Vũ Thị Kim Dung, trang qdnd.vn ngày 16-12-2014.