Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người yêu nước và chiến sĩ quốc tế, điều đó không ai có thể phủ nhận, nhưng liệu ông có phải là người xã hội dân chủ?
Hiện nay, khi mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ Thụy Điển đang được ca ngợi, có một số người lại cho rằng, Hồ Chí Minh không phải là cộng sản, mà về thực chất ông là người xã hội dân chủ từ trong gốc rễ!
a. Trước hết, cần nhìn lại xem có khi nào Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh phủ nhận danh hiệu người cộng sản của mình không?
Trong gần 50 năm làm người cộng sản, khi thuận lợi, lúc khó khăn, dù chi là người thợ ảnh bình thường hay đã là vị chủ tịch nước, khi bị giam hãm chốn ngục tù hay đã lên tới tuyệt đỉnh vinh quang… Hồ Chí Minh lúc nào cũng tỏ rõ là người cộng sản thủy chung, thắng không kiêu, khó không nản, chưa từng thấy khi nào ông phủ nhận danh hiệu cộng sản của mình.

Bác Hồ chăm sóc cây vú sữa của đồng bào miền Nam gửi tặng, 12/1957
Tháng 8 năm 1944, được Trương Phát Khuê trả lại tự do sau hơn một năm cầm tù, trước khi rời Liễu Châu, Hồ Chí Minh nói thẳng với Trương: “Tôi là một người cộng sản, nhưng điều tôi quan tâm hiện nay là Tự do, Độc lập của Việt Nam chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản. Tôi có một lời đảm bảo đặc biệt với ông rằng: chủ nghĩa cộng sản sẽ chưa được thực hiện ở Việt Nam trong vòng 50 năm tới”(9).
Giữa năm 1946, ở Paris, một nhà báo cánh hữu muốn làm giảm thiện cảm của những người Pháp không ưa chủ nghĩa cộng sản đối với Hồ Chí Minh, đã đưa ra một câu hỏi: “Thưa Chủ tịch, ngài có phải là cộng sản không?”, Chủ tịch Hồ Chí Minh bình thản đi tới lẵng hoa bày trên bàn, rút ra từng bông lần lượt đem tặng cho những người có mặt, trước hết là cho chị em phụ nữ, và nói rằng: “Tôi là người cộng sản như thế này này”(Je suis communiste comme ça!).
Hồ Chí Minh hiểu thâm ý của nhà báo Pháp khi đưa ra câu hỏi không thân thiện nói trên, nghĩa là muốn mượn hình ảnh người cộng sản đang bị bêu xấu trong các tấm áp phích xuất hiện trên đường phố Paris thời bấy giờ để hạ uy tín của Hồ Chí Minh. Nhưng cử chỉ văn hóa trang nhã, lịch thiệp của ông đã cho các quan khách thấy hình ảnh một người cộng sản khác - một người cộng sản Việt Nam lịch thiệp, nhân ái, nhân văn.
Trước khi qua đời, Người đã dặn lại trong Di chúc một điều có liên quan đến trách nhiệm đảng viên cộng sản của mình: “Đảng ta là đảng cầm quyền,…phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Hồ Chí Minh đi theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng hiểu rất rõ việc thực hiện lý tưởng cộng sản là một quá trình lịch sử lâu dài, chỉ khi nào đạt tới trình độ phát triển rất cao về kinh tế, văn hóa, xã hội và con người mới có điều kiện thực hiện.
Đối với Việt Nam, Người khẳng định lý tưởng đó còn quá xa, chưa thể thực hiện được trong vòng 50 năm tới; còn đối với thế giới, thì Người cũng nói khi trả lời các nhà báo Pháp năm 1946 tại Paris, qua một sự so sánh: “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Karl Marx. Cách đây 2.000 năm, Đức chúa Jesus đã nói là chúng ta phải yêu mến các kẻ thù của ta. Điều đó đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được. Còn đến bao giờ chủ nghĩa Karl Marx thực hiện thì tôi không thể trả lời được”(10). Như đã thấy: Hồ Chí Minh là một nhà chính trị tỉnh táo và trung thực.
b. Vậy Hồ Chí Minh là ai?
Cần thấy rằng con đường cách mạng của Nguyễn Tất Thành khi ở Pháp đã phát triển qua nhiều chặng. Khi mới chân ướt chân ráo tới Paris cuối năm 1911, trung thành với chiến lược canh tân của Phan Châu Trinh (có thể có sự gợi ý và giúp đỡ của cụ Phan), anh Thành đã viết đơn xin vào Trường Thuộc địa với hy vọng tranh thủ nâng cao học vấn để trở về giúp đồng bào.
Năm 1919, cùng với Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường, anh đưa Yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị Hòa bình Versailles, thí điểm dùng luật pháp tư sản và biện pháp kiến nghị hòa bình để đòi các quyền dân chủ tối thiểu cho nhân dân Việt Nam. Chắc không ai cho anh là người theo chủ nghĩa cải lương!
Trước khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã từng tham gia Đảng Xã hội Pháp Quốc tế 2. Dù đã có cuộc chia tay ở Đại hội Tours, ông vẫn duy trì quan hệ tốt đẹp với nhiều lãnh tụ và đảng viên Xã hội - những người một thời đã dìu dắt, giúp đỡ ông trong buổi đầu chập chững khi ông mới bước vào hoạt động chính trị trên đất Pháp. Chắc cũng không ai vì điều này mà cho ông là người xã hội dân chủ từ gốc rễ?
Hay là, do cách ứng xử ôn hòa của ông: biết tiến biết lui, biết liên minh, đối thoại, kiên trì giải pháp hòa bình trong nhiều vấn đề quốc gia và quốc tế, mà có thể khiến người ta nhìn nhận ông như là một người xã hội dân chủ chăng?
Giải đáp vấn đề này, cần nhắc lại một nguyên lý đơn giản: Chủ nghĩa Marx-Lenin, cũng như mọi chủ thuyết chính trị hay tôn giáo khác, như Phật giáo, Nho giáo khi được du nhập vào Việt Nam, ít nhiều cũng bị khúc xạ bởi truyền thống văn hóa, tư tưởng, đạo đức, lối sống… của dân tộc Việt Nam - một dân tộc có truyền thống nghìn năm văn hiến.
Gia nhập hàng ngũ mác-xít, đương nhiên Nguyễn Ái Quốc chấp nhận học thuyết đấu tranh giai cấp của Marx. Nhưng xuất phát từ thực tế xã hội và văn hóa truyền thống Việt Nam, ông không coi đấu tranh giai cấp là động lực duy nhất, càng không tuyệt đối hóa nó, mà có sự điều chỉnh cho phù hợp với thực tế Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội V của Quốc tế Cộng sản năm 1924, Người phát biểu tham luận cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng giải phóng thuộc địa.
Lý luận Marx-Lenin nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, nhưng Nguyễn Ái Quốc lại cho rằng: “Cuộc đấu tranh giai cấp (ở Việt Nam) không diễn ra giống như ở phương Tây”,“Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước…Người ta không thể làm gì được cho người An Nam nếu như không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất trong đời sống xã hội của họ”(11).
Trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh đã có lần phê phán những biểu hiện giáo điều, tả khuynh của một số người mới từ nước ngoài về: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng đề ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”(12). “Trong lúc cần toàn dân đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là một điều ngu ngốc”(13).
Về chính quyền, Hồ Chí Minh không tuyên bố xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản mà chủ trương thành lập nhà nước dân chủ cộng hòa, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân.
Là người cộng sản, đương nhiên về nguyên tắc, Hồ Chí Minh thừa nhận học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Nhưng khi Nguyễn Ái Quốc bước vào hoạt động chính trị đầu thập niên 20 thế kỷ trước, thì giai cấp công nhân Việt Nam mới đang trên đường hình thành, số lượng còn nhỏ bé, càng chưa thể có giai cấp công nhân công nghiệp và cũng chưa thực sự xuất hiện trên vũ đài lịch sử như một lực lượng chính trị.
Khi đó, Nguyễn Ái Quốc đã từng viết một số bài về phong trào công nhân Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ… mà chưa có điều kiện bàn nhiều về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam khi nó chưa thật sự trưởng thành. Từ sau cách mạng tháng Tám, rồi bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, thì Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chỉ có giai cấp công nhân lãnh đạo thì kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công”(14).
Những điều trình bày trên cho thấy Hồ Chí Minh hoàn toàn không có gì giống với các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa xã hội dân chủ. Ông không phủ nhận đấu tranh giai cấp để đi vào con đường thoả hiệp với kẻ thù; không từ bỏ con đường đấu tranh cách mạng để chấp nhận những cải cách bố thí nhỏ giọt của đế quốc, thực dân; càng không tin rằng vận mệnh của Tổ quốc, tự do của nhân dân có thể giành lại chỉ bằng con đường đấu tranh nghị trường v.v… vốn là những quan điểm đặc trưng của những người xã hội dân chủ.
Chính vì bất mãn với thái độ của các lãnh tụ Đảng Xã hội Pháp trong vấn đề thuộc địa: “Đề ra những luận cương dài dằng dặc và thông qua những nghị quyết rất kêu để sau Đại hội đưa vào viện bảo tàng”(15), nên Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế 3, trở thành người chiến sĩ quốc tế nồng nhiệt, đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập của dân tộc mình và cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Đó là so sánh trên những điều thuộc về nguyên tắc, còn cung bực uyển chuyển trong xử lý mỗi sự việc cụ thể là thuộc về sách lược, nó phụ thuộc vào phong cách, khí chất của mỗi con người, vào nền tảng văn hóa của họ.

Ảnh Bác Hồ đăng trên báo Cứu Quốc ngày 25/5/1948 kèm bài trả lời phỏng vấn của tờ báo Pháp Frères d'Armes (Chiến Hữu)
Nhưng điều quan trọng không phải là lý giải xem Hồ Chí Minh là Xã hội Dân chủ hay Cộng sản, mà vấn đề cơ bản cần làm rõ: Ông là người cộng sản như thế nào? Bởi trong những lãnh tụ cộng sản, có người chuyên quyền, độc đoán, giáo điều, cơ hội “tả” khuynh…
Lại cũng có những người như Antonio Gramsçi, lãnh tụ Đảng Cộng sản Ý, chủ trương thay thế khái niệm “chuyên chính vô sản”(dictature du prolétariat) bằng khái niệm “bá quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản” (hégémonie du prolétariat), nhấn mạnh vai trò chỉ đạo của trí tuệ và đạo đức hơn là bằng quyền lực nhà nước;
Hoặc như Rosa Luxemburg - lãnh tụ Đảng Cộng sản Đức, bà cho rằng “chế độ tập trung dân chủ là tập trung quyền lực vào một nhóm người, còn các tổ chức khác chỉ là công cụ chấp hành của Trung ương mà thôi”; theo bà, cải lương cũng là sản phẩm của cách mạng, lựa chọn cải lương hay bạo lực là tùy tình thế cách mạng, còn bạo lực chỉ là giải pháp cuối cùng, nó là con dao hai lưỡi, rất khó sử dụng…
Đó là nói những lãnh tụ cộng sản chưa cầm quyền. Hồ Chí Minh là một lãnh tụ đã cầm quyền suốt 24 năm, nhưng trước sau vẫn nhất quán là người cộng sản yêu nước, thương dân, luôn đặt lợi ích của Tổ quốc và dân tộc lên trên lợi ích giai cấp và bộ phận, suốt đời tận tụy, khắc khổ nêu tấm gương về người lãnh đạo - người đầy tớ thật trung thành của nhân dân; trong sạch, liêm khiết, đi tiên phong đấu tranh chống hủ bại: tham ô, lãng phí, quan liêu trong điều kiện cầm quyền.
Hồ Chí Minh là biểu tượng của người cộng sản cầm quyền theo chính trị “vương đạo”: lãnh đạo bằng thuyết phục và nêu gương, luôn nêu cao trí tuệ, đạo đức, dân chủ, coi dân là chủ, lấy lợi ích và nguyện vọng của dân làm gốc. Cụ là người rất “trí thức” nên biết quý trọng trí thức, tin dùng người tài, không gợn một chút “kiêu ngạo cộng sản” nào.
Cụ thường nói: “Cách mạng rất cần trí thức và thực ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí thức… Không có trí thức tham gia, công việc của cách mạng khó khăn thêm nhiều”(16).
Nhân cách của Cụ tỏa ra sức hấp dẫn đặc biệt đối với trí thức thuộc nhiều xu hướng, cả trong Nam ngoài Bắc lẫn trí thức Việt kiều, lôi cuốn được hầu hết những trí thức lớn của đất nước đi vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc; ai chưa kịp đến với Cụ thì cũng không khi nào chống lại Cụ cả. Đó là “chìa khóa” đã giúp Hồ Chí Minh thành công.
Học tập và làm theo Hồ Chí Minh là phải phấn đấu thực hiện bằng được những điều đó. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng Hồ Chí Minh lại là một minh chứng hùng hồn về vai trò của vĩ nhân trong lịch sử. Không có Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khó có thể sớm giành được bá quyền lãnh đạo của mình ngay từ sau năm 1945.
Tuy nhiên, cũng không thể quy những phẩm chất nói trên của Hồ Chí Minh chỉ do ông là môn đồ của Khổng giáo. Không ai phủ nhận: xuất thân từ một gia đình nhà Nho, từ nhỏ Nguyễn Tất Thành đã thấm nhuần nhiều mệnh đề Nho giáo có giá trị chỉ đạo nhận thức thế giới và xử lý các vấn đề xã hội-nhân sinh (ví như đạo “Trung Thứ”của Khổng-Mạnh: suy từ lòng mình để hiểu được lòng người, làm chính trị như thế có thể đạt tới điều “nhân”).
Nhưng ảnh hưởng của Khổng giáo chỉ là một phần thôi, cái gốc làm nên nhân cách chính trị Hồ Chí Minh chính là văn hóa Việt Nam, mà hạt nhân của nó là chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân ái và chủ nghĩa cộng đồng Việt Nam - được hình thành lâu đời từ trong quá trình dựng nước và giữ nước.
c. Hồ Chí Minh không phải là người cộng sản giáo điều mà là người cộng sản nhân văn, có tư duy độc lập, sáng tạo, một nhà chính trị có đầu óc thực tế.
Chỉ mới hơn một năm sống ở Moskva, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra một luận điểm mà nhiều nhà cách mạng thế giới phải suy nghĩ: “Marx đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết học nhất định của lịch sử. Nhưng lịch sử nào? - Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”(17) (một phản ứng rất tinh, rất sớm với thuyết “Dĩ Âu vi trung” đang thịnh hành ở châu Âu lúc bấy giờ).
Nguyễn Ái Quốc đã xuất phát từ truyền thống văn hóa Việt Nam để nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Marx. Ông là người cộng sản đầu tiên nhận ra và đánh giá cao tiềm lực của cách mạng thuộc địa ở phương Đông. Trong lúc các đảng Cộng sản theo Quốc tế 3 cho rằng: vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa chỉ có thể được giải quyết khi nào cách mạng vô sản giành được thắng lợi ở phương Tây. Cả Marx - Engels, rồi Lenin cũng chưa nghĩ đến khả năng các dân tộc thuộc địa có thể tự giải phóng mình ngay giữa vòng vây của chủ nghĩa đế quốc.
Thế mà Nguyễn Ái Quốc lại “cả gan” đưa ra một luận điểm trái ngược, “phi kinh điển”, so với các quan niệm trên! Từ sự phân tích những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội… của châu Á (chế độ ruộng công, thuyết bình đẳng về tài sản, chế độ giáo dục và lao động cưỡng bức đối với người lớn, chế độ phúc lợi cho người già, tư tưởng “dân vi quý”, sự lên án nghiêm khắc thói ăn bám…), Nguyễn Ái Quốc đưa ra nhận định: “chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng vào châu Á hơn là ở châu Âu”, nghĩa là cách mạng thuộc địa theo đường lối vô sản có thể nổ ra ở châu Á.
Nếu “chúng ta có nhiệt tình tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và thực tâm muốn giúp đỡ những người lao động lật đổ ách của những kẻ bóc lột” thì họ sẽ trở thành một lực lượng khổng lồ “và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc” họ còn “có thể giúp đỡ những người anh em ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”(18).
Đó quả thật là một luận điểm táo bạo, mới mẻ, lạ lùng nữa, trước đó chưa có ai nhìn ra và chưa ai dám khẳng định mạnh mẽ như thế!

Ngày 10/12/1961, trong chuyến về thăm quê Nghệ An, Bác đã đến thăm và trực tiếp nói chuyện với cán bộ, công nhân Nông trường Đông Hiếu.
Nhìn vào những đặc điểm của văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, chúng ta đều nhận thấy đó chính là sản phẩm của văn hóa chính trị Việt Nam, phản ánh những giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam. Những nguyên lý của chủ nghĩa Marx-Lenin vào Việt Nam, thông qua Hồ Chí Minh, cũng được lọc qua hệ giá trị đó. Khi Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, “Hiểu chủ nghĩa Marx-Lenin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Marx-Lenin được” – thì đó chỉ là mượn danh nghĩa Marx-Lenin để truyền đạt tinh thần nhân văn - nhân nghĩa của văn hóa Việt Nam mà thôi!
III. Kết luận
Nêu lại luận đề “Cụ Hồ là ai?” để trao đổi, chúng tôi chỉ muốn góp thêm một vài ý kiến để cùng tham khảo, vì hiểu rằng Hồ Chí Minh dù là dân tộc hay quốc tế, cộng hòa hay cộng sản, xã hội dân chủ hay Khổng giáo… đối với các học giả nói trên, đều không quan trọng. Mỗi người từ chỗ đứng của mình, rọi một cái nhìn để giúp hiểu được tính đa dạng, phong phú của một vĩ nhân.
Vĩ nhân nào cũng đều là sản phẩm của những điều kiện lịch sử - xã hội nhất định, sở dĩ họ là vĩ nhân vì họ đã vượt lên được những hạn chế của hoàn cảnh để trở thành người đi tiên phong trong thời đại của mình. Ở một vĩ nhân như Hồ Chí Minh lại càng như vậy.
Trên hành trình 30 năm tìm đường, Cụ đã đến nhiều nước, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa, đã tìm hiểu nhiều chủ thuyết, tự coi mình là học trò nhỏ của nhiều ông thầy lớn, nhưng Cụ biết chọn lọc để chỉ học lấy những “cái cần thiết cho chúng ta”, phục vụ cho “con đường giải phóng chúng ta”(19) phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc, chứ không hề “tiếp thu cả gói” một cách giáo điều. Trong những hoàn cảnh bị o ép khắc nghiệt, Cụ vẫn giữ được bản lĩnh, bản sắc của một nhà chính trị tầm vóc, không bị bào mòn, hòa tan, không đầu hàng, khuất phục.
Cụ đã nêu tấm gương bất khuất của một dân tộc nhỏ trước những cường quốc lớn, ngay cả trong vấn đề tiếp nhận văn hóa và tư tưởng.

Bác thăm các thiếu nhi ở Cung Thiếu nhi Hà Nội - Rằm Trung thu 1958.
Vậy cuối cùng, Cụ Hồ là ai? Theo Voltaire, “nhà chính trị thực sự xứng đáng với tên gọi này là người “biết chơi” và dần dà là người chiến thắng”. Theo tôi, Cụ Hồ là nhà chính trị “biết chơi”, biết khéo tận dụng mọi cơ hội và phương tiện để thực hiện mục tiêu đấu tranh của dân tộc.
Cụ là người chiến thắng, vì nền tảng văn hóa của Cụ sâu rộng, lý tưởng của Cụ cao cả, phẩm cách của Cụ trong sáng, phương pháp tư duy của Cụ uyển chuyển, biết linh hoạt ứng biến trước mọi hoàn cảnh, như Cụ thường nói “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, khi “tình hình, nhiệm vụ đã thay đổi… chính sách và khẩu hiệu cũng phải thay đổi cho hợp với tình hình mới”(20).
Vì vậy, Cụ được thừa nhận là biểu tượng cho khát vọng Độc lập, Tự do, Lương tâm và Trí tuệ của các dân tộc bị áp bức; được Tạp chí Time của Mỹ tổ chức bầu chọn vào danh sách 20 nhà lãnh đạo có uy tín hàng đầu trong tổng số 100 nhân vật được bầu chọn là những người nổi tiếng nhất thế giới trong thế kỷ XX(21).
Về phần Cụ, sứ mệnh đã hoàn thành. Trong 80 năm mất nước, bị nô lệ, có biết bao cuộc đấu tranh anh hùng đã diễn ra, song tất cả đều thất bại; với Cụ, ta đã có “một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất”; còn “dân chủ, giàu mạnh và góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới” sẽ được thực hiện ra sao, đó là trách nhiệm của thế hệ lãnh đạo hôm nay, của những người được coi là kế tục Cụ; nhưng để được như vậy, không chỉ nhân danh Cụ mà cần ra sức học tập, thành tâm noi theo Cụ, cả về Tâm, Đức, Trí và Hành.
(9) | Hồi ký của Trương Phát Khuê, đăng trên tuần báo Liên Hợp Tạp Chí, Hồng Kông, 1962. |
(10) | Hồ Chí Minh toàn tập, t.4, tr.272. |
(11) | Hồ Chí Minh toàn tập, t.1, tr.464 và 467. |
(12) | Hồ Chí Minh toàn tập, t.5, tr.272. |
(13) | XYZ: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ban Huấn luyện TƯ xuất bản 1949. (Chưa có trong Hồ Chí Minh toàn tập xuất bản lần 2). |
(14) | Hồ Chí Minh toàn tập, t.6, tr.458. |
(15) | Hồ Chí Minh toàn tập, t.1, tr.281. |
(16) | Hồ Chí Minh toàn tập, t.7, tr.33 và t.5, tr.235. |
(17) | Hồ Chí Minh toàn tập, t.1, tr.465. |
(18) | Hồ Chí Minh toàn tập, t.1, tr.36. |
(19) | Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin - Hồ Chí Minh toàn tập, t.10, tr.127. |
(20) | Hồ Chí Minh toàn tập, t.7, tr.315. |
(21) | Chuẩn bị cho thời điểm kết thúc thế kỷ XX, tạp chí Time đã phối hợp với hãng truyền hình CBS, đưa ra 7 triệu phiếu bầu, gửi đi khắp các nước, để bầu chọn lấy 100 nhân vật được coi là có ảnh hưởng lớn nhất, thuộc các lĩnh vực khác nhau, trong thế kỷ XX. Số cuối tháng 12/1999, tạp chí Time đã công bố danh sách 100 nhân vật đó. Hồ Chí Minh nằm trong số 20 nhà lãnh đạo có uy tín lớn nhất, bên cạnh V.I.Lenin, M.Gandhi, W. Churchill, A. Khomeney, N. Mandela cùng nhiều nhân vật nổi danh khác. |
Bài liên quan: