Tôi sinh ra và lớn lên ở một vùng nông thôn nghèo, trong một gia đình nông dân, tất nhiên cũng nghèo, và bao đời nay chỉ biết mỗi nghề làm ruộng. Tuổi thơ chẳng có gì đặc biệt, hằng ngày chăn trâu và đi học như những đứa trẻ khác trong làng, may tôi học không đến nỗi nên được lên cấp ba, rồi đi học nước ngoài. Hình như tôi là người đầu tiên trong xã có được vinh dự ấy. Chẳng hiểu sao.
Học xong phổ thông, năm 1967, cả lớp viết đơn tình nguyện ra mặt trận, nhưng vẫn có một số ít, rất ít được giữ lại học ở các trường đại học trong và ngoài nước. Năm ấy không phải thi, cứ tốt nghiệp xong, ai được phân đi đâu cứ đi. Không lựa chọn, không kêu ca, và có lẽ cũng không có tiêu cực. Vậy là mười bảy tuổi chưa bao giờ đi xa hơn phố huyện, chưa thấy nhà hai tầng, đùng một cái tôi được đưa sang Moskva, Liên Xô.
Để học tiếng Anh, cái thứ tiếng thời ấy phe xã hội chủ nghĩa ít ai dùng và không hy vọng sau này có lúc sẽ dùng đến. Quả đúng thế, tôi về nước năm 1974, nhưng mãi đến năm 1992 mới sử dụng lại tiếng Anh một cách thường xuyên. Để dạy học thêm tăng thu nhập nuôi nghề văn chương. Từ bấy đến nay, tôi vẫn hằng ngày đều đều đi dạy, với cảm giác hài lòng rằng mình có khả năng giúp được gì đó cho thế hệ trẻ.
Có thể nói tôi bước vào con đường văn học không chủ ý, mặc dù thời phổ thông tôi đã có một số bài thơ đăng báo, được chọn đi thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc, và hình như còn được giải ba. Suốt bảy năm ở nước ngoài, tôi rất mê âm nhạc, thường bỏ học trường chính để sang học ở trường nhạc, và suýt bị đuổi về nước về chuyện này. Học xong, biết không thể đi tiếp con đường âm nhạc, tôi mới đeo đuổi nghề văn chương.
Tôi có ba mảng hoạt động lớn là dịch thơ, sáng tác thơ, và những năm gần đây là viết truyện ngắn. Thấm thoát cũng đã gần ba mươi năm. Nếu tự nhận xét về mức độ thành công thì tôi có thể xếp dịch lên hàng đầu, tiếp đến là thơ sáng tác, và cuối cùng là truyện ngắn.
Bài thơ dịch đầu tiên là Mặt trời của những người không ngủ của Byron, năm 1973, ngẫu nhiên đọc thấy thích thì dịch chơi chứ chưa có chủ định nào cụ thể trong đầu. Hai năm sau tôi mới bắt đầu chuyên tâm vào dịch thuật. Chẳng làm gì khác ngoài dịch thơ.
Khi dịch, tôi đặt hàng đầu nhiệm vụ chuyển đạt hình thức, vần điệu và chất nhạc. Chính xác hơn, tôi đọc hiểu, cảm nhận và viết lại theo cách của mình. Vì vậy mà tôi luôn coi thơ dịch cũng là thơ tôi sáng tác. Có thể nêu một số cuốn tôi tâm đắc nhất: Don Juan của Byron, Thơ cổ phương Đông, nhất là thơ bốn câu của Oma Khayam, Thơ trữ tình Robert Burns, tập thơ thiếu nhi Góc trời tuổi thơ, Nghịch lý của bàn tay của Megielaitis, Bài thơ bạch dương và đặc biệt là tập Cổ thi tác dịch.
Tôi là người luôn có chủ đích, đã quyết làm gì thì cố làm bằng được. Đến nay, với mấy chục tập thơ dịch đã in, tôi coi như làm xong một việc lớn, và quyết định thôi không dịch nữa, trừ một món nợ mà sớm muộn tôi sẽ phải trả, là dịch tập Lã Đường di cảo thi tập của cụ tổ Thái Thuận. Nhân tiện xin nói thêm là dòng họ Thái Bá chúng tôi hiện nay không mấy nổi bật, nhưng trước kia vốn là dòng họ lâu đời và danh giá. Theo gia phả thì người đầu tiên mang dòng họ này vào Việt Nam là cụ Thái Bá Đọi, từ Vân Nam, Trung Quốc, đến ngụ ở Đông Triều, Quảng Ninh, vào năm 1350. Bản thân cụ chỉ là một nhà Nho dạy học, nhưng sau này cháu chắt cụ đều làm quan to.
Về văn thơ nổi bật nhất là nhà thơ lớn Thái Thuận, ngụ ở Thuận Thành, Bắc Ninh, đỗ tiến sĩ năm 1475, được đặc cách phong làm Tao Đàn phó nguyên súy, nghĩa là chỉ sau vua Lê Thánh Tông trong “câu lạc bộ” thơ nổi tiếng một thời. Trong Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ có hẳn một truyện viết về cụ, là Kim hoa thi thoại ký.
Tuy nhiên, các nhân vật kiệt xuất dòng họ Thái Bá chủ yếu về đường trận mạc, tiêu biểu là Thái phó Chân quận công Thái Bá Du cùng tám người con trai của cụ, tất cả đều là danh tướng đời Lê. Đền thờ cụ và cũng là nhà thờ chung của cả dòng họ chúng tôi hiện ở Nghệ An, năm 1995 được Nhà nước cấp bằng công nhận di tích lịch sử, văn hóa (Xem thêm truyện Kiêm quận công Thái Bá Kỳ).
Quan niệm sáng tác thơ của tôi khác nhiều người. Tôi không bao giờ tìm các hình thức mới trong thơ. Lời và ý cũng dung dị, dễ hiểu. Chủ yếu tôi viết thơ chỉ để nói những gì không thể hoặc không tiện nói bằng văn xuôi. Hiện đã xuất bản ba tập dày, mỗi tập ba, bốn trăm trang. Tôi nghĩ tôi đã đạt được điều đó trong tập Lục ngôn thi tập và Bàn tay hình chiếc lá xuất bản gần đây. Tôi cũng quyết định thôi không bao giờ viết thơ nữa.
Vậy chỉ còn lại văn xuôi, cụ thể là truyện ngắn. Tác phẩm văn xuôi đầu tiên của tôi là truyện Những con thiên nga bằng giấy, in ở báo Văn Nghệ năm 1976. Sau đó trong những năm từ 1979 đến 1984 tôi viết rải rác một số truyện, phần nhiều mang tính ngẫu hứng, sau tập hợp lại in thành tập Thái Bá Tân - Truyện ngắn, gần 600 trang, 1996. Năm ngoái, sau khi bỏ thơ, tôi tập trung viết một mạch khoảng hơn 30 truyện, vừa xuất bản trong cuốn Ông già và chiếc đàn dương cầm.
Cách đây mấy tháng, ngẫu nhiên tôi nảy ý định viết một tập truyện có các chi tiết ly kỳ, phi hiện thực, tạm gọi là truyện ma, dù chất ma trong đó rất ít. Hiện đã xong vài chục truyện, phần nhiều đã in trên các báo, và nếu mọi việc diễn ra đúng kế hoạch, tháng 12 này sẽ có sách, dưới tên Tiểu Ái. Chẳng biết là hay hay dở, tôi thường viết rất nhanh, trung bình mỗi tuần một truyện, nếu muốn, và thường thì sau mấy tháng viết liên tục, tôi phải nghỉ một thời gian cho óc và ý nghĩ đầy lại.
Hiện giờ tôi đang nghỉ viết. Chỉ đọc và suy nghĩ. Đọc rất nhiều, để biết cái hay, cái không hay của người khác mà tránh hoặc học hỏi. Cách đây khoảng chục năm, tôi định viết một bộ tiểu thuyết lớn, thậm chí đã lên xong dàn ý và bắt đầu được dăm chục trang. Nhưng sau lại thôi, và cốt truyện của cuốn tiểu thuyết không thành ấy được tôi xé nhỏ thành một số truyện ngắn, như Đêm ở một ga yên tĩnh, Chị Tâm, Một chuyện đau lòng, Chờ đợi, Hà Nội những ngày trước Tết…
Đến nay, tôi đã viết được hơn 100 truyện, nếu trời còn cho sống lâu và khỏe mạnh, tôi sẽ cố viết thêm 300 - 400 truyện nữa. Tôi chủ trương viết thật nhiều, theo kiểu chuyển từ lượng sang chất. Với tôi, cảm hứng giữ vai trò rất nhỏ. Mọi cái đều theo kế hoạch và mục đích cụ thể tự đặt ra cho mình trong từng giai đoạn.
Hiện nay tôi có một lợi thế so với nhiều đồng nghiệp khác, là không phải bận bịu công việc cơ quan (tôi xin nghỉ hưu non năm 1999, lúc mới 50 tuổi), có nhiều thời gian muốn làm gì thì làm. Chuyện gia đình, vợ con, kinh tế suôn sẻ, tinh thần thoải mái, ít đam mê, không cay cú, ghen tị và thực lòng. Cũng chẳng tơ màng danh vọng. Tôi viết vì đơn giản đấy là ý nghĩa cuộc sống. Mong muốn duy nhất của tôi là mang lại chút lợi ích nào đó cho đời, qua những trang viết và các giờ dạy học của mình. Nhiều người gọi tôi là người may mắn, hạnh phúc. Tôi nghĩ có lẽ đúng thế thật.