Nhiều lúc ngắm Hữu Ngọc, không hiểu sao, tôi cứ có cái cảm giác rợn ngợp như đang đứng trước một con khủng long vừa hiện hình người. Hữu Ngọc quả là một con khủng long kỳ vĩ. Ông sinh năm 1918. Khi đó, bố mẹ tôi còn chưa ra đời. Nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng, thuộc lứa tuổi đàn em của ông, giờ cũng đã thành người ở cõi thương nhớ. Vậy mà Hữu Ngọc vẫn dẻo dai “sánh bước cùng thời đại”, hay nói như ngôn ngữ của ông “cứ lang thang như một áng mây giời”.
Hàng ngày, Hữu Ngọc vẫn cậm cạch cuốc bộ từ nhà riêng ở khu Vạn Bảo đến cơ quan ở 46 Trần Hưng Đạo. Chặng đường dài hơn chục cây số đi về.
Hữu Ngọc là Chủ tịch Quỹ Thụy Điển – Việt Nam phát triển văn hóa và có thời là Chủ tịch cả Quỹ Văn hóa Đan Mạch – Việt Nam. Chỉ tính riêng ở Quỹ Thụy Điển mà tôi được biết, trong 5 năm hoạt động, ông đã cùng các cộng sự, tham mưu giúp Thụy Điển tài trợ cho hàng ngàn công trình, hạng mục, khôi phục lại nhiều di sản văn hóa quý giá bấy lâu chìm lấp trong cỏ dại. Tôi đã nhiều lần đi thực địa cơ sở cùng Hữu Ngọc. “Đánh đu” với Hữu Ngọc mệt lắm. Nói như Nghệ sĩ Nhân dân Phạm Thị Thành: “Đi với bác Ngọc thì no kiến thức, nhưng đói bụng và bải hoải toàn thân. Không thể “đấu vật” với bác Ngọc được!”.
Kể cũng lạ. Tôi không ngờ một ông cụ ngót chín mươi tuổi mà vẫn leo núi thoăn thoắt như một con sóc rừng. Hữu Ngọc dường như không có tuổi già. Ông như một bộ cốt đã hóa thạch. Thời gian dường như không thể “đánh” được vào con người trần gian này. Không biết bí quyết nào đã cho ông cụ một sức lực dẻo dai đến thế? Có lẽ một phần là chất liệu sống. Mà sống, với Hữu Ngọc, là lao động. Lao động không ngừng. Nói như Xuân Diệu: “Mắt luôn lục lọi, óc luôn kiếm tìm”. Hữu Ngọc lúc nào cũng cuồn cuộn như một dòng sông luôn chảy xiết. Tôi có cảm giác chỉ một tích tắc dừng lại, có lẽ cái cơ thể đã quánh lại như một bộ cốt sống kia sẽ tan rữa ra như cát bụi.
Nhưng Hữu Ngọc không thể tan rữa. Ông luôn phát triển trong thế vận động. Là người giỏi nhiều ngoại ngữ, am tường nhiều nền văn hóa nhân loại, lại đi nhiều, đọc nhiều, Hữu Ngọc là người Việt Nam, nhưng ông cũng là một công dân của cả một thế giới rộng lớn. Ông kết hợp và tận dụng được cùng một lúc cả hai “nguồn lực” đó. Đây chính là “bí kíp” giúp Hữu Ngọc hơn người. Bằng con mắt của một người thuần Việt, ông nắm bắt được những vẻ đẹp của những nền văn minh nhân loại. Và bằng con mắt của nhân loại, ông phát hiện ra được những tinh chất đặc sắc của Việt Nam mà nhiều khi người Việt ta ở trong nước lại không nhìn ra.
Tất cả những năng lực ấy, Hữu Ngọc đều bộc lộ qua hai phương tiện: Viết và Nói bằng một tư duy rất hiện đại. Nghĩa là chữ ít, nhưng lượng thông tin lại nhiều. Đó là loại văn chương điện tín. Mỗi chữ là một ký tự thông tin. Một lối văn mộc, không son phấn, văn hoa.
Ông thường loại bỏ những giao đãi rườm rà, tước hết những “phụ tùng” không cần thiết, chỉ còn lại cái cốt lõi mà không thể giản lược thêm được nữa, để chuyển tải với bạn đọc những gì mà ông muốn bộc lộ, chia sẻ. Bởi thế, các tập sách của Hữu Ngọc thường rất dày, có cuốn đến cả ngàn trang khổ lớn, nhưng người đọc vẫn không thấy dài. Nhiều bài viết chỉ phong phanh mấy trăm chữ, nhưng lượng thông tin lại nhiều hơn cả một công trình nghiên cứu, nhiều chữ mà ít nghĩa của một nhà văn hóa nào đó. Có lẽ cũng vì thế, tiến sĩ nghệ thuật Đức Gunter Giesenfeld, đã gọi ông là “bậc thầy của những bài ký ngắn”.
Đấy là một nhận xét khá tinh tế.

Bút tích của Nhà văn hóa Hữu Ngọc.
Cũng bằng lối viết cô đọng, bàn về tính cách người Mỹ, Hữu Ngọc không cần bình luận gì cả. Ông chỉ dẫn lời giáo sư Gari Athen, chuyên gia Trường đại học Lowa. Cứ như lời vị giáo sư này, thì ở nhiều nước, đặc biệt là các nước châu Á, người nói thường lựa chiều người nghe. Thích gì thì nói nấy. Với người Mỹ, như thế là bất lương, là lừa đảo, vì giá trị cao nhất là thật giả, cao hơn cả lễ phép và xã giao. Khi thương lượng để ký hợp đồng, người Mỹ không quanh co, khéo léo, mà đi thẳng vào những điều khoản cam kết.
Đi đường, người Mỹ hỏi: “Đến làng X gần nhất bao xa?” Nhiều khi để khách đi đường đỡ mệt, đỡ ngại, người kia có thể đáp: “Ồ, ngay dưới kia thôi!” Người khách Mỹ lái xe đi cả đêm, chửi rủa người chỉ đường nói dối. Nếu người Mỹ được hỏi đường, họ sẽ trả lời ngay: “Còn xa đấy. Đến ba chục cây đấy!” Khách sẽ thất vọng, mệt mỏi, nhưng biết được sự thật.
Bàn về các làng quê truyền thống Việt Nam, Hữu Ngọc cho rằng, do chiến tranh, do kinh tế thị trường, lại ảnh hưởng đến văn hóa phương Tây, các làng truyền thống của Việt Nam, hầu hết đã ít nhiều bị “ô nhiễm” văn hóa. Có chăng chỉ còn mỗi làng Đường Lâm. Cũng theo Hữu Ngọc, Đường Lâm có thể xem là mẫu làng truyền thống Việt Nam duy nhất còn lại khá hoàn hảo, ít bị ô nhiễm nhất.
Nhà nghiên cứu văn hóa Thái Lan Thainaitis nói với Hữu Ngọc rằng: “Cần thiết phải cảnh báo để người dân nhận thức về di sản văn hóa của mình trước khi nó bị lãng quên và bị thời gian hủy diệt. Đường Lâm vừa là thắng cảnh đẹp, vừa được tạo nên bởi chính bàn tay của người Việt Nam – đó chính là văn hóa văn minh của nước Việt Nam có một lịch sử lâu dài… Cảnh đẹp Hạ Long là do thiên nhiên tạo nên, không giống như Đường Lâm chỉ do con người tạo dựng”.
Cảnh quan Đường Lâm dường như vẫn giữ được vẻ xưa. Nói như họa sĩ Phan Kế An, trước kia theo tục lệ làng, không ai được xây dựng nhà cao hơn mái đình. Tuy lệ ấy đã nhạt đi, có vài ba nhà cao tầng được xây nhưng không đáng kể. Cái chính ít xây là do dân nghèo, nông nghiệp là chính, buôn bán ít, nghề phụ chỉ có một số nghề truyền thống: Giò chả, nuôi gà, làm kẹo bột, chè lam, bánh bỏng, dệt vải và làm tương. Đưa ra mấy thông tin như thế, rồi Hữu Ngọc bình một câu sắc lẻm mà không kém phần chua xót. May quá! Không ngờ chính “cái nghèo đã cứu vớt được một Di sản Văn hóa”.
Không ít người đã đi Côn Minh bằng đường xe lửa. Nhưng không mấy ai để ý đến con đường sắt này. Trong một bài viết rất ngắn về Lao Cai, mảnh đất biên cương nơi địa đầu tổ quốc, Hữu Ngọc cho ta biết: “Đường xe lửa Lao Cai – Côn Minh, hoàn thành năm 1910, mà thực dân Pháp khoe là một kỳ công kỹ thuật và một thắng cảnh du lịch: “Đây là một trong những đường xe lửa ngoạn mục nhất và hiểm trở nhất châu Á. Nó băng qua những quang cảnh đa dạng, khi thì đi sâu vào rừng nhiệt đới bao la, khi thì trèo những ngọn núi cheo leo, khi thì uốn khúc ở bên đáy vực thẳm”. (Sách hướng dẫn du lịch Madrrolle, 1932, Paris).
Nếu chỉ dừng lại như thế, đoạn văn chẳng ấn tượng gì, cũng không có giá trị gì ngoài một chi tiết thông tin về năm ra đời của con đường sắt. Nhưng Hữu Ngọc đã đẩy lên một nấc nữa: “Có điều cuốn sách này không nói là xây dựng tuyến đường này, Công ty Xe lửa Vân Nam của Pháp đã làm chết năm vạn “cu-li” Trung Quốc và Việt Nam. Và thế là ngay lập tức, ta sẽ nhìn con đường sắt ấy bằng một con mắt khác.
Cũng đề cập đến mảnh đất địa đầu tổ quốc này, Hữu Ngọc còn bàn đến một địa danh với mấy tình tiết khá thú vị. Qua bài viết của Hữu Ngọc, ở thị xã Lào Cai, theo nhân dân kể lại, thì địa danh Cốc Lếu có nghĩa là gốc gạo. Đồn rằng theo lệnh Minh Mạng, người Việt ở đâu đều phải trồng cây gạo để đánh dấu lãnh thổ. Hóa ra thời xưa, ông cha ta đã cắm mốc lãnh thổ… bằng cây.

Bìa cuốn Hà Nội của tôi, NXB Thanh Niên in năm 2010.
Ngoài những trang viết, Hữu Ngọc còn có nhiều cuộc giao lưu quốc tế. Tôi cũng đã nhiều lần ngồi dự những cuộc gặp gỡ của ông. Những lúc ấy, Hữu Ngọc rất linh hoạt, khi nói tiếng Anh, lúc chuyển tiếng Pháp, lúc lại quặt sang tiếng Đức. Ai hỏi ông bằng tiếng nước nào thì ông trả lời bằng tiếng nước đó. Hữu Ngọc có khả năng thôi miên người nghe bằng khối lượng kiến thức khá uyên bác của mình. Chúng ta hãy nghe chính những khán giả của ông bộc lộ:
“Xin vô cùng đa tạ bài nói tuyệt vời của ông Hữu Ngọc ngày hôm qua ở Trung tâm văn hóa Nhật Hawaii. Tất cả chúng tôi đều bị cuốn hút nghe ông kể về dĩ vãng và hiện tại ở Việt Nam” (Paul Rehob, Chủ tịch Phòng thương mại Việt – Mỹ ở bang Hawaii – Mỹ).
“Bài thuyết trình của ông Hữu Ngọc thực là hoàn hảo. Có một thành viên trẻ của đoàn chúng tôi còn bảo phần của ông là điểm hay nhất của cả chương trình nói chung. Bản thân tôi thấy Hữu Ngọc sử dụng kỹ năng sư phạm hiện đại rất điêu luyện cho vốn hiểu biết sâu sắc của mình. Tôi ước ao giá được nghe bản thuyết trình này sớm hơn, khi tôi bắt đầu công tác ở Hà Nội. Một bài thuyết trình thật sáng sủa” (Bjorn Lasson, phục trách đoàn 30 chuyên gia và nhà doanh nghiệp Thụy Điển trong chuyến thăm Việt Nam).
“Đối với nhà trí thức Việt Nam ưu tú này – ông Hữu Ngọc – ngôn ngữ của chúng ta, di sản nghệ thuật của chúng ta, toàn thể nền văn hóa của chúng ta, là bộ phận của nền văn hóa riêng của ông, bên cạnh nền văn hóa dân tộc, gắn chặt nhau và cùng tỏa sáng” (Charles Fourniau – Tiến sĩ sử học Pháp – Hội trưởng Hội Pháp – Việt hữu nghị).
“Ông Hữu Ngọc quả là một người phi thường – điểm nổi bật nhất ở Hội nghị là nghe ông Hữu Ngọc nói chuyện”.
“Hay đến sửng sốt”.
“Hữu Ngọc gây ấn tượng mạnh trong tôi. Rất khiêm tốn! Rất thông minh! Rất khoan dung!”.
“Tôi bàng hoàng vì chỉ nửa giờ gặp ông Hữu Ngọc, tôi hiểu văn hóa Việt Nam bằng cả bấy lâu tôi đọc bao nhiều cuốn sách và tìm hiểu nền văn hóa của dân tộc ông”. (Bruno – Nhà ngoại giao Bỉ).
Ta có thể còn gặp rất nhiều những tiếng reo vui như thế của bạn bè quốc tế trên các trang báo nước ngoài. Tôi cũng muốn nói thêm một điều gì đó về ông. Nhưng rồi tôi lại im lặng. Khẳng định điều gì về ông bây giờ, dường như là… quá sớm. Bởi Hữu Ngọc đang sung sức. Ông vẫn đang đi. Trước mặt tôi vẫn thấp thoáng tấm lưng ông. Tấm lưng lầm lụi trong gió bụi…
Bài liên quan: